Hôm nay,  

Mổ Cườm Mắt

13/03/201100:00:00(Xem: 10119)
Mổ Cườm Mắt

Trần Bình Nam
Đúng hẹn tôi đến Trung tâm Giải phẫu mắt trên đường Madison thành phố Torrance, quận Los Angeles lúc 7:00 giờ sáng ngày 9/2 để mổ cườm (Cataract Surgery). 8 giờ sáng tôi vào phòng chuẩn bị. 10:30 người ta đẩy tôi vào phòng mổ. 11:00 giờ người ta đẩy tôi ra. Mọi việc diễn tiến khi tôi đang dưới ảnh hưởng của thuốc mê. Ra khỏi phòng mổ tôi bàng hoàng không biết mình đang ở đâu và mắt mình đã mổ chưa. Sao không thấy cảm giác gì cả. Một cô y tá (nurse) cho biết mắt trái tôi đã mổ xong. Họ đẩy tôi vào một phòng đợi xem TV chờ Trung tâm Giải phẫu gọi con gái tôi đến đưa về nhà.
Chuyện mổ cườm sao mà đơn giản như vậy!
Có thể đối với các vị bác sĩ mổ mắt của năm 2011 mọi việc chỉ đơn giản như vậy. Nhưng trước khi mổ nhiều bạn tôi đã mổ cườm kể cho tôi nghe những chuyên phiền toái nho nhỏ làm tôi cũng ngán.
Một bạn nói, sau khi mổ vết cắt trên giác mạc (1) (cornea) được vá lại, mắt được đắp bằng một miếng băng trắng nhỏ phải mang kính che ánh sáng suốt ngày đêm. Một tuần sau, bác sĩ cắt chỉ nơi giác mạc.
Có bạn cho biết sau khi mổ không được xem TV, không đọc sách đọc báo ít nhất một tuần lễ, không ho mạnh và cần uống thuốc chống bón (constipation) để không rặn làm động mắt khi đi cầu .
Đa số mổ hai mắt cách nhau 6 hay 7 tháng, có người một năm. Có bạn chỉ mổ một mắt cho rằng “như vậy đủ rồi” lỡ mổ mắt kia không thành công thì lại hối.
Bạn Vũ Đình Minh (bác sĩ y khoa, nhà văn Mai Kim Ngọc) một bạn thời trung học của tôi, trái lại, đã thi vị hóa cảm giác của ông khi miếng băng vải che mắt sau khi mổ được lấy xuống và ông bắt đầu thấy vạn vật chung quanh.
Ông viết:
“Mổ cườm xong,…. ta mới thực sự biết trời có thể xanh, núi có thể biếc, và mây có thể trắng đến chừng ấy. Không ngờ tạo vật có thể đẹp đến thế …”
Vũ Đình Minh nhỏ hơn tôi 3 tuổi, mổ mắt năm 2007. Tính ra bạn mổ mắt sớm hơn tôi 7 năm. Trời cho mắt tôi bị cườm chậm nên khi nghe bạn Vũ Đình Minh tả “trời xanh, mây đẹp”, tôi nghĩ ông bạn tôi văn chương hoá một chút cay đắng của cuộc đời chứ cái gì mà “dẹp dữ vậy”. Tôi vốn không thích mổ xẻ, vả lại năm 2007 mắt tôi còn tốt, đọc sách, lái xe ban đêm hay ban ngày không trở ngại nên tôi thầm nghĩ “mình chẳng bao giờ mổ cườm” để được hưởng cái thú tưởng tượng trong văn thơ của bạn tôi .
Đầu năm 2009 tôi khám mắt định kỳ tại San Diego trước khi dọn nhà lên Redondo Beach, quận Los Angeles. Ông bác sĩ mắt bảo tôi: “Tinh thể mắt ông bắt đầu phủ mây. Ông cần khám trong vòng 6 tháng để chuẩn bị mổ cườm. Để trễ khó mổ.”
Về Los Angeles tôi quên lời khuyên của bác sĩ mắt San Diego. Tôi tin mắt tôi còn tốt.
Qua năm 2010 khả năng thấy của tôi xuống nhanh. Cuối năm 2010 tôi đi khám bác sĩ Aarchon Joshi tại Trung tâm Y tế ở Redondo Beach. Bác sĩ Yoshi sau khi khám cho biết đã đến lúc và cho tôi một thời biểu mổ cườm.
Trước hết ông cho xem một cuốn phim ngắn, giải thích kỹ thuật mổ cườm, những phiền toái có thể xẩy ra và hỏi tôi có chấp nhận những “nguy hiểm” của mổ cườm không" Đây chỉ là thủ tục bảo vệ người bác sĩ chứ mổ cườm không nguy hiểm như mổ tim v.v…, mặc dù trong cuốn phim giới thiệu người ta nói trong muôn một có trường hợp mổ cườm bị mù.
Cuốn phim ngắn giải thích rằng mắt trời cho là một bộ phận khá phức tạp gồm chính yếu một tinh thể dạng lăng kính nhận ánh sáng đưa vào võng mạc (2) (retina). Tùy theo ánh sáng đến từ vật gần hay xa, tinh thể điều tiết (accommodation) độ cong mặt tinh thể để đưa ánh sáng vào đúng võng mạc. Tuổi già, hoặc chưa già nhưng mắt có bệnh, tinh thể không “điều tiết đúng” làm cho ánh sáng tụ lại trước hay sau võng mạc sinh ra bệnh cận thị hay viễn thị. Cận thị hay viễn thị có thể chữa bằng kính đeo mắt. Kính đeo mắt điều chỉnh sự điều tiết không đúng của tinh thể trời cho giúp ánh sáng tụ lại đúng trên võng mô và ta thấy rõ được vật thể chung quanh.
Mổ cườm khác hẳn. Tuổi về già tinh thể trời cho bị vẩn đục từng nơi (gọi là mắt có cườm) không còn trong suốt nữa như bị mây che (mắt có mây). Mây hay cườm chỉ là một và gọi là cataract. Và dù cho tinh thể mắt còn điều tiết tốt vẫn không có đủ ánh sáng vào võng mạc nên ta thấy cảnh vật lờ mờ.
Cách chữa là vất bỏ tinh thể trời cho và thay bằng một tinh thể nhân tạo trong suốt gọi là Intraocular Lens (IOL). Tiến trình y khoa này gọi là mổ cườm (cataract surgery). Danh từ mổ mắt bao gồm mọi việc mổ xẻ để chữa các thứ bệnh khác về mắt trong đó có mổ cườm.
Bác sĩ Joshi cho tôi biết có hai thứ tinh thể nhân tạo. Một thứ không điều tiết gọi là monofocal IOLs, và sau khi mổ cần dùng kính nếu muốn thấy thật rõ khi đọc sách hay lái xe. Y khoa vừa sáng chế một loại tinh thể mới gọi là multifocal IOLs có thể tự điều tiết để nhìn rõ cảnh vật ở mọi khoảng cách không cần kính. Không có hãng bảo hiểm nào trả tiền cho tinh thể multifocal IOLs. Thời giá mỗi tinh thể multifocal IOLs là $3,500 mỹ kim. Tôi không có khả năng dùng multifocal IOLs. Nếu có chưa chắc tôi dùng. Vốn bảo thủ tôi không tin cái gì quá mới trong thời đại quảng cáo này.
Sau đó bác sĩ Joshi bảo tôi gặp bác sĩ gia đình (primary care doctor) để khám tiền giải phẫu (pre-op exanination) mục đích để xem có đủ sức khỏe không.
Đơn giản thôi. Y tá đo áp huyết, bác sĩ nghe tim nghe phổi lấy lệ rồi chuyển ý thuận cho bác sĩ mắt. Bác sĩ gia đình sau khi xem danh sách thuốc tôi đang dùng, dặn ngưng thuốc Flomax (thuốc điều hòa đường tiểu tiện) 2 ngày trước khi mổ và dùng lại sau khi mổ một ngày.
Bác sĩ Joshi cho hẹn ngày 9 tháng 2 mổ. Mổ mắt trái trước vì nhiều mây hơn . Ông cho phái mua hai thứ thuốc nhỏ mắt: Prednisolone 1% chống sưng (anti-inflamation) , và trụ sinh Ofloxaxin .3% , một ngày trước khi mổ nhỏ cả hai thứ thuốc 4 lần, mỗi lần một giọt cách nhau 5 phút . Đêm trước khi mổ không ăn, không uống nước từ 12 giờ khuya. Và chuẩn bị người nhà đưa đi đưa về.

Ngày mổ họ đưa tôi vào phòng chuẩn bị. Cô y tá hỏi những câu hỏi thông thường về bệnh, về thuốc đang dùng, cho biết những nguy hiểm có thể xẩy ra và yêu cầu mình ký (có ai vào đó rồi mà không ký đâu ") Sau đó họ cho tôi nằm trên một chiếc giường đẩy, kiểm tra lại tên tuổi, ngày sinh, và hỏi có biết hôm nay mổ mắt nào (trái hay phải) không, và lấy bút màu vẻ một cái hoa ngay trên mắt trái của tôi. Cô y tá lại nhỏ 4 hay 5 thứ thuốc vào mắt, chuẩn bị IV (IntraVeinous) hai nhánh. Một nhánh vào nước biển, nhánh kia sẵn chờ để bác sĩ chính thuốc mê. Một chốc ông bác sĩ Joshi đến tự giới thiệu ông sẽ mổ mắt trái cho tôi. Ông lật nhanh qua xấp hồ sơ xem y tá đã chuẩn bị đúng quy trình chưa, rồi ký vào. Ông khuyên tôi yên tâm rồi bước nhanh qua bệnh nhân đang được chuẩn bị như tôi nằm giường đẩy bên cạnh.
Mười phút sau, bác sĩ gây mê (anesthesiologist) đến giới thiệu cho biết sẽ là người gây mê để giúp tôi “cảm thấy thoải mái” khi mổ.
Hai mươi phút sau, họ đẩy tôi vào phòng mổ, vừa đi tôi thấy ông bác sĩ gây mê chích thuốc vào IV. Tôi “lắng nghe” để xem từ tỉnh qua mê như thế nào. Nhưng không, tuyệt đối không, tôi chỉ thấy cánh cửa của phòng mổ rồi “không biết gì nữa”.
Khi tỉnh dậy tôi thấy chiếc giường đã được đẩy lại chỗ cũ. Tôi không ghi nhận một cảm gíác gì nơi đôi mắt. Cô y tá nói với tôi “đã mổ xong”.
Cô y tá lược qua cho tôi những gì cần làm khi về nhà, ngày mai gặp lại bác sĩ Joshi sẽ có chỉ dẫn mới. Cô dặn: nhỏ thuốc như trước khi mổ, thể dục vừa phải, đừng cúi người lâu, không lái xe, ở nhà nên có một người bên cạnh đề phòng phản ứng bất thường của thuốc mê, có thể xem truyền hình, đọc sách, làm việc trên computer không giới hạn. Cô cho tôi một kính đen bảo dùng khi ra khỏi nhà, và một tấm kính che mắt bằng plastic trong suốt và băng dán để dán trên mắt khi ngủ. Cô y tá nói, để tránh vô tình nằm úp mặt hay chụi mắt.
Xong họ mang giày cho tôi (để tôi tránh cúi xuống) rồi dùng xe lăn đẩy tôi vào một phòng nhỏ, xem TV chờ người đón.
Hôm sau gặp bác sĩ Joshi. Ông đo sức nhìn của mắt và kết luận: Tốt, có thể lái xe, tiếp tục nhỏ hai thứ thuốc một ngày 4 lần và gặp lại ông sau 7 ngày. Gặp lại ông, ông cho biết, quá trình “liền da” (healing) của vết mổ bình thường, ngưng nhỏ thuốc trụ sinh, tiếp tục nhỏ thuốc Prednisolone trong 4 tuần lễ, mỗi tuần giảm một giọt (4 giọt, xuống 3, 2, 1 rồi dứt).
Ông Joshi cho hẹn 2 tuần sau mổ mắt bên phải.
Mọi việc diễn tiến như mắt bên trái. Khác một chút là bác sĩ gây mê chờ đến khi tôi vào phòng mổ mới chích thuốc gây mê và chích ở một lượng không làm tôi mê hẳn mà chỉ “lâng lâng”. Tôi thấy quang cảnh phòng mổ, và có ý chờ xem bác sĩ Joshi làm việc. Nhưng dù không mê, tôi vẫn không thấy bác sĩ Joshi vào, và ra lúc nào, cho đến khi người ta đẩy tôi ra khỏi phòng mổ.
Tuần sau gặp ông Joshi, ông cười kết luận: “You are a bionic man now” (3). Hai tuần sau, ông cho tôi làm kính, một để đọc sách, một để lái xe. Ông cho biết hai tinh thể nhân tạo ông gắn vào mắt tôi khác nhau. Mắt trái nhìn gần rõ hơn nhìn xa, trong khi mắt phải nhìn xa rõ hơn nhìn gần. Trên nguyên tắc tôi không cần dùng kính. Não bộ sẽ tự động điều chỉnh để khi đọc sách chuyển nhiệm vụ qua mắt trái, khi lái xe lại chuyển nhiệm vụ qua mắt phải. Nhưng ông cảnh giác, sở xe cộ (DMV) của California còn theo luật cũ là đo từng mắt (chứ không cho hai mắt giúp nhau) nên khi DMV đo mắt trái ông họ vẫn có thể buộc phải mang kính.
Đó là chuyện mổ cườm của tôi. Bây giờ thì tôi biết ông bạn Vũ Đình Minh của tôi đã tả chân cảnh đẹp thật của trời đất chứ không chỉ
là thi vị hóa. Tôi rất tâm đắc và thích thú đọc lại đoản văn dí dõm của ông:
“Khi ta còn trẻ, ta chấp nhận dễ dàng như một chân lý rằng người già rất thiệt thòi khi ngũ quan cùng thể xác suy nhược với thời gian. Mắt thì mờ, tai thì lãng, mũi không phân biệt được mùi, lưỡi mất khả năng nêm nếm... Nhưng bây giờ xét lại từng bộ phận của cơ thể, nhận định này thật là sai lầm.
Trước tiên là thị giác. Thật ra ta thị giác yếu kém từ tuổi 40-50, tuổi các con chúng ta bây giờ. Ngay tuổi ấy, ta đã phải cần kính để đọc để viết. Nhưng khi trẻ, ta xử dụng kính một cách thô sơ cho công việc cơm áo nhất thời. Những gì ta viết, những gì ta đọc ở tuổi ấy, chung cuộc tính sổ, có được bao nhiêu là quan trọng hay cần thiết.
Ngược lại bây giờ, ở tuổi 70, chúng ta xử dụng cặp kính một cách vô cùng thú vị. Chỉ nguyên những cuốn sách hay khi về hưu rồi ta mới có thì giờ đọc, cặp kính không còn là một công dụng kiếm sống, mà trở nên cao quý biết bao. Nhưng những thú vị lớn nhất liên hệ đến thị giác là được mổ cườm mắt. Với những ai chưa được hưởng kinh nghiệm này, tôi xin mạn phép dông dài đôi chút về cái tuyệt vời của những ngày, những tháng, những năm sau cuộc tiểu giải phẫu nhiệm mầu này. Với tháng năm, tinh thể mắt đục dần, và ta chấp nhận là tất cả ngoại giới có màu ám khói.
Trong cảnh u ám đó, hãy tưởng tượng lúc vết mổ cườm vừa lành, và bác sĩ mở băng cho ta được nhìn cuộc sống bằng con mắt mới. Ôi chao là đẹp. Lúc này ta mới thực sự biết trời có thể xanh, núi có thể biếc, và mây có thể trắng đến chừng ấy. Không ngờ tạo vật có thể đẹp đến thế. Nếu các bạn ở gần núi và mổ cườm về mùa thu, thì các bạn sẽ phải ngỡ ngàng vì cái huy hoàng của lá trên núi đổi màu. Nếu các bạn mổ mắt vào mùa xuân, thì những vạt hoa dại trong các thung lũng đẹp như ai đổ phẩm vàng phẩm tím lên cả nội cỏ. Nếu các bạn ở miền duyên hải Ca-li như chúng tôi, thì các bạn có thể thấy hoàng hôn chưa bao giờ rực rỡ như vậy khi mặt trời như một trái cầu lửa chìm xuống Thái Bình Dương. Với thị giác mới, các bạn sẽ thấy biển đẹp ngay cả những hôm gọi là xấu trời, khi tất cả trở thành một hòa tấu của những cung bực màu trắng. Trời lẫn với nước, cái đẹp pha lẫn cái buồn, thi vị biết bao...”
Và lý thú nhất khi ông cầm hai cái tinh thể nhân tạo trong tay nói với các thanh niên tuổi “tri thiên mạng” rằng:
“Nhưng không phải ai cũng được mổ cườm. Phải có cườm, mới được mổ cườm. Và phải có tuổi mới có cườm để mổ. Các bạn trẻ, các bạn phải chờ vài thập niên nữa …”
Không có quả chanh chua nào (lemon) được biến thành nước chanh ngọt ngào (limonade) như vậy!
March 12, 2011
[email protected]
www.tranbinhnam.com
Ghi chú:
(1)Giác mạc (cornea) là phần trong suốt bên ngoài bao bọc mắt để bảo vệ con ngươi và tròng đen.
(2)Võng mạc (retina) lớp màng ở phía sau nhãn cầu, nhạy cảm với ánh sáng.
(3)Xem TV Series 1976-1978 “Người Đàn Bà Vạn Năng” (The Bionic Woman) do nữ tài tử Lindsay Wagner đóng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.