Hôm nay,  

Lòng Mẹ

09/04/201100:00:00(Xem: 9071)

Lòng Mẹ 

long_me_vietnam-large-content: Hình ảnh bà mẹ Việt Nam.

Trương Phú Thứ

Nước Mỹ dành riêng ngày "8 tháng 5" để tôn vinh các Bà Mẹ. Một ngày trong năm hay cả 365 ngày trong năm cũng không đủ để những người con có lòng hiếu thảo bầy tỏ tấm của họ đối với những người Mẹ đã mang nặng đẻ đau và dưỡng dục đàn con. 

Có bút mực nào nói lên công ơn của các Bà Mẹ cho được tron vẹn" Một bài hát rất quen thuộc của nhạc sĩ Y Vân "Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào…" cũng chỉ diễn tả được một tiếng lòng rất đơn sơ của đứa con với mẹ hiền, còn triệu triệu tiếng lòng từ trái tim nhỏ bé của con muốn được tuôn trào ra khỏi lồng ngực, muốn được bốc hơi ra từ tâm tưởng để đền đáp công ơn và tình yêu vô tận của mẹ. Chẳng có bài văn, áng thơ hay câu hát nào có thể nói lên được tình mẹ con thiêng liêng như hương hoa của đất trời. Công lao dưỡng dục sinh thành của Mẹ như núi cao biển rộng.

Từ ngày mẹ mang con trong lòng đến những ngày mẹ mỏi mắt dong duổi với từng bước chân phong trần của con trên những lối đi gập ghềnh của cuộc đời. Hình bóng mẹ lúc nào cũng ôm ấp con, lúc vui buồn khi vinh nhục. Mẹ luôn là điểm tựa vững chắc của con. Lúc con ốm đau cũng như khi con khoẻ mạnh thì bát cháo đầy, ly nước ngọt của mẹ đã nuôi sống con và giúp con mạnh tiến trên đường đời. Mẹ là hơi ấm trong đêm giá lạnh. Mẹ là bóng mát giữa trưa hè nóng nực. Mẹ đã gánh chịu những mọi đau khổ gian truân để chỉ vì tương lai của đời con. Mẹ bóp bụng chịu đói, quần áo mẹ vá chằng vá đụp nhưng con luôn được no đủ áo quần lành lặn bằng tình thương không bờ không bến của mẹ. Mẹ là tất cả và con yêu mẹ hơn chính sự sống của con vì mẹ đã hy sinh đời sống mình cho con.

Tôi đã ngồi lặng người trong bóng tối của một đêm đầu Xuân để tìm kiếm những từ ngữ đâu đó trong tâm khảm và cái vốn liếng văn chương hạn hẹp của tôi để viết ra những lời ca tụng những Bà Mẹ Việt Nam. Những Bà Mẹ đã dằn bụng chịu cơn đói hành hạ nhưng vẫn tươi cười vun đầy bát cơm cho con. Những Bà Mẹ quần áo vá lớp trên lớp dưới âu yếm nhìn con lành lặn chạy nhẩy vui chơi với chúng bạn. Những Bà Mẹ đã tháo chiếc nhẫn cưới vội chạy vào nhà thương đổi lấy những viên thuốc cho con trên giường bệnh. Những Bà Mẹ khóc không ra tiếng ôm xác con bọc trong tấm vải nhựa trên chiếc xe thồ chậm chạp lăn bánh giữa đêm khuya. Bà Mẹ Việt Nam ơi! Chẳng có chữ nghĩa nào có thể diễn tả được lòng mẹ thương con; chẳng có lời văn áng thơ nào nói lên đươc những gian nan khổ cực mẹ đã vì con mà phải gánh chịu. Mẹ đã khô cạn nước mắt vì con; mẹ đã vắt kiệt sức lực còm cõi vì bát cơm manh áo cho con; và trái tim mẹ đã khô héo vì những chông gai con vấp ngã trên đường đời. Con đã làm gì để đền đáp công lao sinh thành dưỡng dục. Con đã có lần nào mang đến cho mẹ một nụ cười, một niềm vui. Đã lần nào con bưng hầu mẹ một ly nước mát giữa trưa hè oi bức, một bát cháo nóng vào buổi tối mưa gió bão bùng. 

Một bài thơ dàn dụa nước mắt của nữ sĩ Nguyễn Thị Mai, "Qua hàng trầu nhớ mẹ" mà người đọc chắc không khỏi nước mắt ngắn dài. Nhân dịp lễ Tôn Vinh các Bà Mẹ, tôi xin được đọc bài thơ dấu yêu như một bó hoa hồng trắng của những người không còn mẹ và bó hoa hồng đỏ của những người con đang được ấp ủ dưới bàn tay yêu thương của mẹ. 

Gian hàng trầu vỏ quen một thưở

Cau tươi vỏ thắm, lá thơm cay

Đi chợ con bớt dăm đồng vặt

Mua để mẹ ăn mỗi thường ngày

*

Quết trầu đỏ thắm làn môi mẹ

Sau bữa cơm đèn trải chiếu hoa

Mẹ ngồi thong thả bên hè mát

Hàng xóm sang chơi, ấm cửa nhà

*

Nhưng rồi hình bóng về xa khuất

Mẹ chẳng còn ăn những miếng trầu

Chiếc cơi trống vắng hơi đồng lạnh

Con đặt tay vào ngón buốt đau

*

Mẹ ơi! Thơm cay một miếng trầu xưa

Mà con phải bớt tiền mua vì nghèo

Bây giờ đã bớt gieo neo

Lại không còn mẹ mà chiều. Khổ không"

*

Từ ngày đưa mẹ ra đồng

Qua hàng trầu vỏ con không dám vào.

(Nguyễn Thị Mai - "Qua hàng trầu nhớ mẹ)

Vần thơ êm ái nhẹ nhàng, tiếng thơ thanh thoát như hương hoa của buổi sớm mai đầu Xuân nói lên lòng yêu thương khôn nguôi của người con gái khóc nhớ mẹ. Những kỷ niệm chất ngất dạt dào của mẹ và con đã đi vào dĩ vãng như trầm hương bay lên trong cõi không gian vô tận. 

Nhưng miền dấu ái mặn nồng với bao vui buồn vẫn còn vướng vất đâu đây, lãng đãng trên giàn thiên lý, dật dờ nơi khay trầu của mẹ. Ngày còn mẹ, vì gia cảnh "gieo neo" cô con gái thi sĩ của chúng ta đã không phụng dưỡng cho thoả tình hiếu thảo. "Bây giờ đã bớt gieo neo. Lại không còn mẹ mà chiều. Khổ không""

Nhân dịp ngày lễ Tôn Vinh các Bà Mẹ, tôi xin kính cẩn dâng lên bó hoa muôn ngàn hương sắc đến tất cả các Bà Mẹ Việt Nam. Những Bà Mẹ đang "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời" ở những vùng đất sỏi đá miền Trung nước Việt, nhặt mót từng nắm lúa để đóng tiền trường cho con. Những Bà Mẹ đang vật vờ giữa đêm khuya, lượm nhặt miếng giấy mảnh chai để mua cho con tập giấy, cái bút; mong con yên tâm học hành cho nên người. Công lao và tình yêu vô tận của những Bà Mẹ Việt Nam đã bay lên trên giới hạn chữ nghĩa của tôi và đàn con của các Bà Mẹ. 

Chúng con muôn đời khắc ghi công ơn trời biển của các Bà Mẹ Việt Nam vô cùng yêu mến.

Trương Phú Thứ

(Ngày Các Bà Mẹ 2011)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.