Hôm nay,  

Trần Hoài Thư Và ‘Xa Xứ’

18/04/201100:00:00(Xem: 9203)
Trần Hoài Thư Và ‘Xa Xứ’

Đặng Phú Phong
tran_hoai_thu_sach-large-content“Xa Xứ”, thơ của Trần Hoài Thư do Thư Ấn Quán xuất bản là một tập thơ, trước hết: Đẹp. Tranh Bìa của Tống Phước Cường (cũng là một trong những họa sĩ như Thân Trọng Minh, Nguyễn Trọng Khôi, Đinh Cường…có tranh phụ bản cho tập thơ). Tập thơ in hoàn toàn bằng giấy láng, dày, tốt với 38 đoạn thơ cùng 38 phụ bản tranh màu. Tác giả đã rất công phu tìm , chọn 38 bức tranh rất ư liên quan đến 38 đoạn thơ trong tập. quả là một điều thú vị. Một tập thơ, hình thức hết sức công phu, trau chuốt, trình bày trang nhã. Tác giả in chỉ để tặng.
Trần Hoài Thư. Một khuôn mặt rất quen thuộc trong giới cầm bút của Nam Việt Nam từ thập niên 60, một thành viên trụ cột của nhóm Ý Thức. Anh là cựu sĩ quan và là cựu phóng viên chiến trường của QLVNCH. Tù cải tạo 4 năm. Vượt biển , định cư tại Hoa Kỳ 1980. Về hưu sớm, dành toàn thời gian cho việc sưu tập di sản văn học miền Nam , cơ sở Thư ấn quán và tạp chí văn học Thư Quán Bản Thảo. Anh đã xuất bản hơn hai chục tác phẩm thơ, văn. Có thể nói 38 đoạn thơ trong tập ( đoạn ngắn nhất là 2 câu, dài nhất là 8 câu) là 38 bài thơ cùng có tên là “Xa Xứ”. Nói một cách khác bài thơ “Xa Xứ” của Trần Hoài Thư dài 38 đoạn.
Gạt lệ, từ bỏ quê nhà, đối diện với may rủi. Rủi nhiều hơn may. Cho dù đến được với bến bờ tự do. Trần Hoài Thư cũng như những người yêu Việt Nam, vẫn bị cái rủi bao vây, khống chế. Đó là cái rủi của một con người bị mất quê hương
Từ bên này địa cầu, Trần Hoài Thư, luôn luôn mang nặng một nỗi buồn xa quê. Nỗi nhớ mang tên mưa, những cơn “mưa tối mặt”, liên quan đến sinh tử của người lính chiến:
“Tây Nguyên đèo ải ngăn sinh lộ
“Trăm đứa lên có mấy kẻ về
“Giày trận bám bùn mưa tối mặt”
( “Xa Xứ”, tr. 6”)
Nỗi nhớ mang tên cây như rễ cây đa cổ thụ “đâm lòng đất”:
“Cây đa. Ngàn rễ đâm lòng đất
“Như tấm lòng người với Bồng Sơn
“Đa bám làng, tôi đi bám đất
“Đất và làng, thương quá quê hương….”
(Xa Xứ, tr.8).
Nỗi nhớ của anh còn mang tên nhiều thứ nữa. Những cái tên ấy đều mộc mạc chân quê. Như là : “cây chuối”, “con Bìm bịp”, “lúa Chiêm”…
Những lần hành quân, người lính chiến đang tuổi thanh niên, không thể không vấn vương trong lòng mái tóc của người con gái tuổi dậy thì trong vụ Chiêm vàng bát ngát.

Uống một cốc cà phê, nhớ bạn. Hình ảnh cái ly xây chừng của cà phê bít- tất bỗng sống dậy trong anh. Lặng lẽ nhưng sừng sững. Ảo ảnh nhưng chừng như tác giả có thể nắm bắt:
“Cốc xây chừng ta để lại Việt Nam
“Chắc sẽ nguội và đóng thành lệ đá”
(“Xa xứ”, tr. 20)
Cây chuối là hình ảnh của quê hương mình, tình cờ thấy nó ở vườn ai (!) bên đường, anh không khỏi bàng hoàng thảng thốt, dừng xe :
“Bụi chuối nhà ai bên đường đã mọc
“Chuối mẹ chuối con, trời hỡi quê nhà!”
(“Xa Xứ”, tr. 22)
Tình cờ hai kẻ xa xứ gặp nhau . Rủ nhau vào quán:
“Hỏi em: em xa xứ
“Hỏi anh : anh xa nhà
“Mời em vào quán vắng
“Uống thêm màu mây xa.”
(“Xa Xứ”, tr. 36)
Đây là đoạn thơ hay nhất trong thi tập Xa Xứ.
“Em xa xứ/ Anh xa nhà/ Mời vào quán vắng”. Nếu để kể lể, chia sớt nỗi buồn lưu lạc thì chắc tác giả chẳng nói làm chi. Chỉ để “ Uống thêm màu mây xa”. Câu thơ như suối nguồn tuông chảy, làm ngập lụt cả không gian bằng nỗi nhớ vợi vời. Uống thêm màu mây xa là uống một thứ thuốc độc thơ mộng. Một lối tự tử tuyệt vời. Chữ “thêm” và chữ “xa” là 2 chữ đắc địa . Không gian của 4 câu thơ là không gian tuyệt đối tĩnh lặng cô đơn. Chao ôi, trống vắng của kiếp người như vậy có thể nói là cùng kiệt!
Cái tĩnh lặng cô đơn ở đây là chính do tự lòng mình mở ra dẫu cho đang đứng giữa phố xá đông người. Cảnh quang không tĩnh như trong bài Tĩnh dạ tư (1). Nó khiến ta nhớ đến bài Ức Đông Sơn:
“Bất hướng Đông Sơn cửu
“Tường vi kỷ độ hoa"
“Bạch vân hoàn tự tán
“Minh nguyệt lạc thuỳ gia"”.
Lý Bạch.
Dịch nghĩa(ĐPP)
Lâu không đến Đông Sơn
Hoa tường vi đã nở mấy lần"
Mây trắng hợp rồi tan
Trăng sáng lạc vào nhà ai"
Lý Bạch nhìn mây. Trần Hoài Thư uống mây. Cả hai bài thơ đều không đề cập đến nỗi nhớ, nỗi cô đơn nhưng đều gây cho người đọc bàng hoàng đến lặng người vì nỗi cô đơn cùng cực.
Trần Hoài Thư biết rõ mình “ đứng giữa nỗi buồn lịch sử” nên đành phải ngậm ngùi với thân phận mất mát dù thỉnh thoảng cũng muốn tìm “có exit nào để bớt cô liêu” (trg 58).. Nhưng, tất cả chỉ là chiêm bao:
“ … Ta về chứ đêm qua
“Ta vẫn về, rất thầm lặng thiết tha.” (“Xa Xứ”, tr. 78)
Kẻ lưu vong mà cứ canh cánh bên lòng nỗi mất mát thì sẽ trở thành một người chung thân bất mãn. Hay ít ra là một kẻ mang bệnh trầm cảm. Mong nhà thơ chúng ta tìm được chỗ, nơi, chốn thoát thân.
____
Chú thích:
(1)“Tĩnh dạ tư” của Lý Bạch.
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.