Hôm nay,  

Libya và Dầu Hỏa

26/04/201100:00:00(Xem: 8264)

Libya và Dầu Hỏa

Trần Bình Nam

Thế giới A rập và Hồi giáo tại Trung đông và Bắc Phi đang trải qua một cuộc cách mạng có thể làm thay đổi bộ mặt của vùng đất này và tạo ra những chấn động chính trị có tầm vóc thay đổi mối quan hệ quốc tế hiện hữu.

Bão nổi từ Tunisia ngày 17/12/2010 thổi qua Yemen, Ai Cập, Quatar, Bahrain, Syria và từ ngày 18/2/2011 cơn gió dân chủ ào ạt thổi đến Libya đe dọa chế độ của nhà độc tài Kadafi.

Ngày 11/2/2011 tổng thống Hosni Mubarak của Ai Cập từ chức, nhường quyền quản lý đất nước cho các tướng lãnh qua sự dàn xếp khéo léo của Hoa Kỳ. Vào những ngày hạ tuần tháng 4 tổng thống Yemen chuẩn bị từ chức. Trong khi đó chính quyền Bahrain, Quatar, Syria tiếp tục dùng vũ lực đàn áp các cuộc biểu tình trước sự bất động của thế giới Tây phương.

Thế giới hình như đang dồn tâm lực tìm một giải pháp cho Libya nghĩ rằng nếu có một giải pháp cho Libya tình hình Trung đông sẽ được ổn định.

Libya đất rộng dân thưa. So với Việt Nam Libya rộng hơn 5 lần, và với 5.8 triệu người, dân số Libya chỉ bằng 1/15 dân số Việt Nam. Nhưng Libya từng là nơi hội tụ của nhiều nền văn minh Hy Lạp, La Mã, A Rập và từ năm 1911 đến nay là trung tâm tranh chấp của các nước Tây phương chính yếu là Ý, Pháp, Anh, Mỹ. Gần đây hơn, dưới chế độ của đại tá Kadafi, Libya còn là trung tâm ve vãn của Trung quốc và Liên bang Nga.

Người Hy Lạp chiếm đóng Libya từ thế kỷ 7 trước Công nguyên . Sáu thế kỷ sau, người La Mã thay người Hy Lạp cho đến thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên, người A Rập chiếm đóng Libya. Đến thế kỷ thứ 16 người Thổ Nhĩ Kỳ sát nhập Lybia vào đế quốc Ottoman của họ, lấy Tripoli (nay là thủ đô Libya) làm trung tâm chính trị.

Trước khi đế quốc Ottoman suy tàn, năm 1911 Libya trở thành thuộc địa của Ý. Năm 1943 trong Thế chiến 2 quân đội đồng minh đánh bại quân đội Ý và chiếm đóng Libya. Sau khi Thế chiến 2 chấm dứt (1945) Libya được đặt dưới sự giám hộ của Liên hiệp quốc và năm 1951 trở thành một Vương quốc độc lập dưới quyền cai trị của vua Idris as-Senussi xuất thân là một trong những tộc trưởng có công tranh đấu cho nền độc lập Libya.

Lịch sử Libya sóng gió kể từ năm 1959 khi các hãng dầu Tây phương tìm thấy dầu tại Libya. Dầu hỏa đã đem lại nhiều quyền lợi cho vương triều Idris nhưng cũng mang đến nhiều tai họa cho nhân dân Libya.

Trong thập niên 1960 phong trào A Rập dâng cao tại Trung đông, trong khi vua Idris bảo thủ không chịu hội nhập với phong trào, thúc đẩy một nhóm sĩ quan trẻ do Đại úy Kadafi (sau này trở thành Đại Tá) cầm đầu một cuộc đảo chánh lật đổ vua Idris và thành lập Cộng Hòa Hồi giáo Libya năm 1969.

Đại tá Kadafi là một người có tài, chủ trương đất A Rập của người A Rập, thù ghét Tây phương và ông nhanh chóng trở thành một nhà độc tài lập dị. Ông bắt chước trang phục của Cesar, họp hành bàn quốc sự trong lều dựng ngoài trời cho giống dân du mục (TBN: thật ra ông họp trong lều là đế tránh tình báo Tây phương nghe lén). Ông thuê các thiếu phụ trẻ đẹp người Ukraine làm vệ sĩ và săn sóc sức khỏe cho ông. Năm 1988, ông ra lệnh đặt bom làm nổ một máy bay dân sự của hãng Pan Am của Hoa Kỳ trên không phận Scotland . Ông chi tiền giúp các nhóm khủng bố tại Palestine, Phi Luật Tân và nhóm Quân đội Cộng hòa Ái Nhĩ Lan (Irish Republican Army - IRA). Đồng thời Kadafi tiến hành chương trình chế tạo bom nguyên tử .

Sau cuộc khủng bố 911 năm 2001, Hoa Kỳ đánh Afghanistan và tấn công Iraq lật đổ Saddam Hussein. Kadafi biết phận mình ông thay đổi thái độ. Ông giao hai người bỏ bom chiếc máy bay Pan Am 103 cho tòa án Anh quốc (TBN: sau này Kadafi dùng dầu vận động chính phủ Anh trả tự do cho một trong hai người) và bỏ ra hằng trăm triệu mỹ kim bồi thường cho các gia đình nạn nhân. Quan trọng nhất là tự nguyện hủy bỏ chương trình nguyên tử và đồng ý bảo đảm nguồn dầu hỏa giới hạn của Libya cho Hoa Kỳ, Ý, Pháp, Trung quốc và Liên bang Nga .

Năm 2004 Hoa Kỳ hủy bỏ lệnh cấm vận Libya. Không còn bị liệt vào thành phần bất hảo, Đại Tá Kadafi đã được đón tiếp tại dinh thủ trướng Anh số 10 Downing Street London, được ngoại trưởng Hoa Kỳ Condoleezza Rice đến thăm tại Tripoli, và được bầu làm chủ tịch khối các quốc gia Phi châu trong một nhiệm kỳ.

Tuy nhiên chỉ là một "cuộc tình duyên" đồng sàng dị mộng, nên khi dân Libya theo chân Tunisia, Ai Cập xuống đường, các nước Tây phương tuy có lúng túng trước tình hình mới cũng nghĩ rằng đây là cơ hội tốt để nhổ cái gai Kadafi nhường chỗ cho một chế độ dân chủ thân Tây phương.

Ngày 17/3/2011 Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc thông qua Nghị quyết 1973 cho phép Liên hiệp quốc áp đặt vùng cấm máy bay của Kadafi bay trên không phận Libya (no-fly zone) để - với lý do - ngăn không cho Kadafi dùng Không quân bỏ bom và bắn giết những người biểu tình đòi dân chủ. Người ta ngạc nhiên vì Trung quốc và Liên bang Nga đã không phủ quyết mà chỉ bỏ phiếu trắng để cho 10 phiếu thuận của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc trở thành Nghị quyết quốc tế.

Hoa Kỳ đã nhanh chóng hành động. Hàng trăm hỏa tiễn đã được Hải quân Hoa Kỳ bắn vào các cơ sở quân sự của Kadafi. Nhưng tổng thống Obama rút kinh nghiệm hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan chỉ can thiệp cấp thời để cứu các lực lượng "dân chủ" chống Kadafi khỏi tan rã rồi giao lại nhiệm vụ thi hành nghị quyết "cấm bay" cho NATO. Hoa Kỳ tuyên bố không có ý định lật đổ Kadafi, và sẽ không bao giờ đưa quân đến Libya. Tuy nhiên tổng thống Obama nghĩ rằng nghị quyết của Hội đồng Bảo an có thể tạo ra sức bật cần thiết để nhân dân Libya đứng lên hòan thành cuộc cách mạng dân chủ. Ông mạnh dạn tuyên bố "Kadafi phải ra đi!"

Nhưng sự việc đã không xẩy ra như dự kiến của tổng thống Obama. Sau khi giao trách nhiệm áp đặt No-fly zone cho NATO, cuộc chiến nhì nhằng. Kadafi tiến qua (về phía Đông), phe đối lập đánh lại (về phía Tây) tùy theo mức độ can thiệp của Không quân NATO .

Hai bên tiến quân qua lại theo xa lộ dài hàng trăm cây số dọc theo bờ biển Địa trung Hải. Lời tuyên bố bảo vệ dân Libya của NATO mỗi lần bỏ bom chận đà Kadafi tiến quân trở thành buồn cười vì hai bên (phe ủng hộ và phe chống Kadafi) bắn nhau và dân chúng đều bị tổn thất bởi súng đạn cả hai bên, ngay cả các cuộc bỏ bom của NATO cũng gây tổn thất nhân mạng cho dân chúng. Trong khung cảnh đó, cuộc chiến tại Libya trở thành một cái gì khác thường.

Cái làm cho cuộc chiến tại Libya khác thường có thể là dầu hỏa và đặc biệt là vai trò của Trung quốc.

Khi khí thế dân nổi dậy đòi dân chủ bùng nổ tại Bắc phi, Trung quốc và Liên bang Nga đều biết nó là một hiện tượng không kềm chế được một cách đơn giản và chọn thái độ như Tây phương là hành xử cách nào để duy trì quyền lợi của mình.

Trung quốc đang mua và vẫn cần mua dầu hỏa của Libya nên Trung quốc có nhu cầu duy trì thiện cảm với một chính quyền mới tại Libya, nên Trung quốc không bỏ phiếu phủ quyết Nghị quyết 1973. Trung quốc biết dù không có Nghị quyết 1973 của Liên hiệp quốc vẫn không ngăn cản Hoa Kỳ, Pháp, Ý hành động (như Hoa Kỳ từng hành động tại Iraq) và Trung quốc sẽ mất cả chì lẫn chài. Nhưng Trung quốc cũng không thể bỏ phiếu thuận, vì nếu Kadafi tồn tại Trung quốc sẽ có khó khăn về sau chẳng những với Libya mà còn khó khăn với các nước Phi châu vốn có cảm tình với Kadafi. Trung quốc nhập cảng 35% dầu dùng trong nước từ Phi châu . Phiếu trắng là lựa chọn tốt nhất của Trung quốc (và Liên bang Nga).

Hành động nửa vời của Hoa Kỳ "vừa đánh vừa run" và cách xử dụng vũ lực của NATO khi đánh khi không để hai bên không bên nào diệt được bên nào phải chăng là một thỏa thuận giữa 5 Ủy viên Thường trực của Hội đồng Bảo an để Trung quốc và Liên bang Nga bỏ phiếu trắng "

Và cục diện Libya sẽ như thế nào" Libya bị chia đôi; Kadafi, - hay ít nhất con trai ông ta - còn đó; Al Quada bị kềm chế; Anh, Pháp, Mỹ, Liên bang Nga, Trung quốc, Ý không ai mất phần dầu.

Phải chăng đó sẽ là giải pháp cho cuộc nổi dậy tại Libya "

Thời thế thế giới "thế thời phải thế". Các thế lực trên thế giới đều hành xử theo quyền lợi của mình. Những gì còn lại đều là chiêu bài.

Trần Bình Nam

April 25, 2011

[email protected]

www.tranbinhnam.com <http://www.tranbinhnam.com>

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.