Hôm nay,  

Đối Thoại Mỹ-Hoa

13/05/201100:00:00(Xem: 10070)

Đối Thoại Mỹ-Hoa

Nguyễn Xuân Nghĩa & Vũ Hoàng RFA

...Bắc Kinh e sợ nhất là Mỹ mà giải quyết xong cuộc chiến khủng bố thì sẽ chú trọng hơn đến Đông Á...

Suốt hai ngày mùng chín mùng mười tuần này, phái đoàn hùng hậu của Hoa Kỳ và Trung Quốc đã có hàng loạt những cuộc tiếp xúc tại thủ đô Washington D.C. của Hoa Kỳ. Đây là kỳ thứ ba của chương trình gọi là "Đối thoại về Chiến lược và về Kinh tế" giữa hai nước đứng đầu thế giới về kinh tế và cũng là giữa một quốc gia dân chủ nhất là Hoa Kỳ với một xứ đông dân nhất mà có chế độ độc đảng là Trung Quốc. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu về khuôn khổ đối thoại này trong phần trao đổi do Vũ Hoàng thực hiện sau đây với nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa.
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, thưa ông, là mối quan tâm của nhiều người, kể cả ở Việt Nam. Tuần này, các lãnh đạo cao cấp của đôi bên đã lại có một cuộc họp định kỳ tại thủ đô Mỹ. Theo dõi tình hình Trung Quốc và mối quan hệ giữa hai quốc gia này, ông đánh giá ra sao về các cuộc gặp gỡ đó" Như mọi khi, xin ông trình bày cho bối cảnh của vấn đề.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Chúng ta sẽ đi từ chuyện xa ra chuyện gần.
- Hoa Kỳ đã có quan hệ với Trung Quốc có thể gọi là từ tiền kiếp, tức là trước khi trở thành một nước độc lập. Nhưng khi Hoa Kỳ xuất hiện, là từ cuối thế kỷ 18, và phát triển thành một quốc gia hùng mạnh và thịnh vượng, là trong 200 năm qua, thì cũng là lúc "siêu cường" của thế giới thời đó là Trung Quốc lại bắt đầu lụn bại, từ sau thời Càn Long trở đi. Rồi bị tan rã trong nhiều thập niên cho đến ba chục năm trước mới tái xuất hiện như một cường quốc. Đó là bối cảnh chung.
- Nói về quan hệ kinh tế thì biến cố năm 1773 đánh dấu phong trào nổi dậy giành độc lập là vụ "khởi nghĩa vì trà" - người Mỹ gọi là "Boston Tea Party". Đó là khi cư dân quăng trà xuống biển tại hải cảng Boston để phản đối chính khách thuế khóa của chính quyền thuộc địa của Đế quốc Anh. Trà đó không là trà Ấn Độ mà người Anh hay uống mà là trà Tầu, điều ấy cho thấy là từ tiền kiếp rồi, Mỹ đã nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc!
- Sau đấy, khi nhà Đại Thanh bị suy yếu và bị các nước Âu Châu gây sức ép để đòi buôn bán và thậm chí tấn công để khai thác, Hoa Kỳ vẫn đứng ngoài vì theo đuổi mục tiêu xây dựng chế độ họ mới thành lập, hơn là bành trướng ra ngoài. Dân Mỹ chỉ quan tâm đến Trung Quốc qua các nhà truyền giáo mà chẳng biết tới ảnh hưởng thật ra giới hạn của các mục sư trong thiện chí này.
- Khi sáu nước Âu Châu và Nhật tấn công Trung Quốc bằng võ lực, Hoa Kỳ không tham dự vào cái gọi là "bát quốc liên quân" mà chỉ đòi là Trung Quốc mà cho các nước những điều kiện gì thì mình cũng được như vậy. Đó là nguyên ủy của quy chế ta gọi là "tối huệ quốc" sau này. Khi các nước đòi Trung Quốc bồi thường thiệt hại vì vụ nổi dậy và đập phá các cơ sở Tây phương của phong trào gọi là "Nghĩa hoà đoàn" cũng bị gọi là "Loạn quyền phỉ" vào cuối thế kỷ 19, Hoa Kỳ cũng nhận tiền bồi thường, nhưng lại dùng để cấp học bổng cho sinh viên Trung Quốc đi học để nâng cao dân trí và tin rằng lãnh đạo Trung Quốc hiểu ra thiện chí của mình.
Vũ Hoàng: Xin hỏi ông ngay một câu, trong phần trình bày về bối cảnh vừa qua, ta thấy ra nào là việc buôn bán, việc truyền giáo, việc chấp nhận quy chế giao thương không hạn chế gọi là tối huệ quốc, thậm chí cả chiến tranh và du học sinh, v.v... Chúng ta thấy ra toàn những vấn đề có thể nói là "hiện đại", là thời sự. Có phải như vậy không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa đúng thế và xuyên qua đó ta còn thấy nhiều hiểu lầm từ cả hai phía!
- Hoa Kỳ tưởng rằng mình có thiện chí, Trung Quốc thì coi là Hoa Kỳ chẳng khác gì Âu Châu hay Nhật Bản đã từng tấn công và khuynh đảo xứ mình. Qua thế kỷ 20, tình trạng hiểu lầm đó còn tiếp tục, nhất là khi lãnh đạo Trung Quốc thấy xứ sở bị tàn phá, chủ quyền bị xâm lấn và khi phe Cộng sản chiến thắng thì mối hoài nghi hoặc ác cảm đó chỉ tăng vì do nhu cầu chống Nhật, Hoa Kỳ yểm trợ Trung Hoa Quốc Dân Đảng cho tới năm 1947 mới chấm dứt.
- Ngược lại, Hoa Kỳ chưa có chủ đích rõ rệt với chế độ mới thành hình tại Trung Quốc vào năm 1949 thì lại giật mình vì phản ứng bành trướng "để tự vệ" của Cộng sản Trung Hoa. Lãnh đạo Bắc Kinh coi việc họ chiếm đóng Tân Cương, Tây Tạng và đưa quân vào bán đảo Triều Tiên là để tự vệ, tức là xây vùng trái độn để khỏi bị uy hiếp như đã từng bị trong lịch sử của họ. Phía Mỹ thì coi đó là sự xâm lăng trắng trợn.
- Suốt hai chục năm đầu của đảng Cộng sản Trung Quốc thời Mao - từ 1949 đến 1969 - Hoa Kỳ đứng ngoài để canh chừng sự bành trướng chung của khối Cộng sản trong toàn cục của Chiến tranh lạnh, và dù có tham chiến tại Việt Nam thì vẫn không muốn trực tiếp gây hấn với Trung Quốc. Trong khi Trung Quốc bước vào thời kỳ cách mạng hoang tưởng và sắt máu của Mao Trạch Đông để xây dựng "xã hội chủ nghĩa" và làm xứ sở thêm lụn bại trong sự cô lập mê sảng.
Vũ Hoàng: Cho đến khi Tổng thống Richard Nixon mở đường đối thoại và kéo Trung Quốc ra khỏi thời kỳ cô lập đó, vào năm 1972"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa đúng như vậy và chúng ta bước qua bối cảnh hiện tại.
- Bối cảnh này có ba mốc thời gian đáng kể là năm 1972 là khi ông Nixon đi Tầu như ông vừa nhắc tới; là năm 1979 là khi Hoa Kỳ bang giao với Bắc Kinh, cho Trung Quốc gia nhập Liên hiệp quốc, mà đó cũng là năm Đặng Tiểu Bình khởi sự cải cách kinh tế sau Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng vào tháng 12 năm 1978. Sau cùng và đáng kể vì gần nhất là năm 2001 khi Hoa Kỳ đón nhận Trung Quốc vào Tổ chức Thương mại Thế giới WTO.
- Nhờ được mở cửa hội nhập với kinh tế thế giới, Trung Quốc đạt mức tăng trưởng với tốc độ cao hơn và có giúp cho mấy trăm triệu người ra khỏi hoàn cảnh chết đói vì nghèo khốn. Nhưng cũng vì vậy mà quan hệ kinh tế với Mỹ bắt đầu có vấn đề và đôi bên cần một diễn đàn đối thoại.
Vũ Hoàng: Chúng ta đi vào chuyện thời sự với cuộc đối thoại tuần này. Trước nhất, đó là về kinh tế có phải không"

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Mọi sự bắt đầu từ năm 2004, bên lề Thượng đỉnh APEC tức là Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Á châu Thái bình dương tại Chile, khi Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đề nghị với Tổng thống George W. Bush là cấp lãnh đạo kinh tế hai nước nên có những gặp gỡ định kỳ để thảo luận về các vấn đề song phương. Nôm na là về áo cơm giữa hai nước thì nên nói chuyện phải quấy với nhau, chớ đừng đánh nhau bằng luật lệ hay tố tụng! Cuộc gặp gỡ lần đầu là vào Tháng Tám năm 2005 tại Bắc Kinh. Lần thứ nhì là Tháng 12 năm đó tại thủ đô Washington D.C. Tổng cộng là sáu lần trong ba năm....
- Qua năm 2006, Tổng thống Bush và Hồ Cẩm Đào đồng ý nâng cấp đối thoại lên một bậc và định chế hóa việc này thành một năm hai phiên họp, luân phiên tại thủ đô của hai nước. Tổng cộng thì hai bên có năm phiên họp như vậy, phía Hoa Kỳ do Tổng trưởng Ngân khố làm trưởng đoàn, phía Trung Quốc là Phó Thủ tướng, khi ấy là bà Ngô Nghi. Đó là khuôn khổ đối thoại kinh tế mang tính chất chiến lược, gọi là Strategic Economic Dialogue, trong đó, tầm chiến lược của vấn đề kinh tế được nhấn mạnh: chữ "chiến lược" là hình dung từ bổ nghĩa cho chữ "kinh tế".
- Thế rồi đến Thượng đỉnh G-20 vào Tháng Tư năm 2009, lãnh đạo hai nước là Tổng thống Barack Obama và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đề nghị mở rộng tầm đối thoại. Từ nay sẽ bao gồm hai loại hồ sơ là kinh tế lẫn chiến lược giữa đôi bên. Thực tế là nói chuyện về quan hệ kinh tế và ngoại giao giữa hai quốc gia lẫn các vấn đề đáng quan tâm của thế giới. Ngoài giới chức kinh tế tài chánh, còn có sự tham dự của viên chức ngoại giao cấp cao.
- Đồng chủ tịch của phần vụ đối thoại về kinh tế là Tổng trưởng Ngân khố Mỹ Timothy Geithner và Phó Thủ tướng Vương Kỳ Sơn. Đồng chủ tịch của phần vụ đối ngoại về chiến lược là Ngoại trưởng Hillary Clinton và Ủy viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc - ông này một "siêu Tổng trưởng" và nhân vật có thẩm quyền về ngoại giao của Trung ương đảng. Khuôn khổ đối thoại vừa kinh tế vừa chiến lược (S&E thay vì SE) xuất phát từ đó. Lần này là cuộc gặp gỡ thứ ba. Nhưng lần này, việc đối thoại hoặc thực tế là thương thảo song phương còn có ý nghĩa khác. Vì một sáng kiến của... Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.
Vũ Hoàng: Ông vừa trình bày tính cách mở rộng của đối thoại, từ kinh tế qua chiến lược, bây giờ lại có thêm một nội dung đối thoại khác là quân sự nữa hay sao"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Số là trong hơn một năm liền Trung Quốc từ chối thảo luận về các vấn đề quân sự, Tháng Giêng vừa qua, khi thăm viếng Bắc Kinh và chứng kiến sự xuất hiện của máy bay tàng hình "Tiêm kích J-20" Trung Quốc trước vẻ ngơ ngác của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, Tổng trưởng Quốc phòng Mỹ là ông Robert Gates đề nghị là đôi bên nên đưa vấn đề an ninh vào nghị trình các buổi họp, với sự tham dự của các giới chức về an ninh và quân sự.
- Lý luận ở đây là quan hệ giữa đôi bên đã suy đồi vì những gián đoạn thông tin và thiếu thảo luận về quân sự và quốc phòng. Từ việc Mỹ cung cấp võ khí cho Đài Loan tự vệ đến nỗ lực trang bị quân sự của Bắc Kinh, hoặc khủng hoảng tại bán đảo Triều Tiên vì Bắc Hàn, v.v... hai bên có những động thái khiến bên kia nghi ngờ. Chi bằng công khai hóa quyết định của mình. Hoa Kỳ đã có khuôn khổ đối thoại và thương thảo như vậy với Liên bang Nga, cớ sao không có một nơi thảo luận tương tự với Trung Quốc" Sau cùng thì Bắc Kinh đồng ý. Như vậy, việc nâng cấp rồi mở rộng nội dung đối thoại phản ảnh nhiều vấn đề căng thẳng trong quan hệ song phương giữa hai nước, từ kinh tế qua chiến lược, rồi an ninh và quân sự. Nhưng vì là lần đầu nói chuyện, không ai chờ đợi một kết quả đột phá.
Vũ Hoàng: Khi theo dõi thì ông thấy nghị trình thảo luận giữa đôi bên có những gì là đáng chú ý"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi cho rằng ngoài lãnh vực an ninh và quân sự chưa có kết quả vì nghi ngờ còn quá sâu đậm, phía Hoa Kỳ cũng muốn Bắc Kinh giải thích cảm nghĩ của mình về mấy điểm nóng của thế giới. Thí dụ như phong trào dân chủ có là âm mưu của Mỹ không, hay là trào lưu tất yếu nhân loại" Cớ sao Trung Quốc lại có vẻ sợ hãi và bắt bớ lung tung" Song song với hội nghị này, Ngoại trưởng Hillary Clinton có nói với báo chí Mỹ việc Bắc Kinh cưỡng chống trào lưu dân chủ chỉ là phản ứng khôi hài và vô vọng. Bà dùng một thành ngữ của Mỹ, cũng tương tự như ta gọi là "đi chăn vịt trời vậy"! Bà còn nói thêm là mô thức phát triển của Trung Quốc không có tương lai và tất yếu sẽ khủng hoảng, tức là một nhận định rất nghiêm khắc. Ngoài ra, đôi bên có thể còn trao đổi về các hồ sơ chiến lược khác, kể cả nỗ lực chống khủng bố.
- Trong đề mục của chúng ta thì mình chú ý đến loại hồ sơ thứ ba sau an ninh và chiến lược, là hồ sơ kinh tế. Phía Hoa Kỳ muốn mở rộng tầm đối thoại ra khỏi chuyện hối suất đồng Nguyên và đã ký kết một thỏa ước chung về hợp tác kinh tế, ngoại thương và đầu tư.
- Tổng kết thì từ năm ngoái, Trung Quốc có chiều hướng đối thoại nhũn nhặn hơn. Bắc Kinh chuẩn bị chuyển hướng kinh tế để tránh khủng hoảng và chuyển giao quyền lực cho thế hệ thứ năm sẽ lên lãnh đạo sau Đại hội 18 vào năm tới. Nhưng dưới vẻ nhũn nhặn là một chiến dịch tăng cường khả năng quân sự lồng trong cuộc vận động ngoại giao nhằm tạo ra hình ảnh ôn hòa và hào phóng hơn của Trung Quốc với nhiều quốc gia trên thế giới.
- Ngược lại, từ 10 năm trước, Mỹ mở cửa cho Trung Quốc gia nhập Tổ chức WTO với hy vọng là xứ này sẽ cải cách cả kinh tế lẫn chính trị, trở thành hiếu hòa và biết điều hơn trong một thế giới hội nhập. Chuyện ấy không xảy ra. Nhờ hội nhập, Trung Quốc vọt lên thành đại cường kinh tế và lại đòi lấn lướt các xứ khác trong khi vẫn giữ ách độc tài bên trong. Bây giờ, Hoa Kỳ cần xuất khẩu nhiều hơn và khó chấp nhận những hạn chế của Trung Quốc ở bên trong và sự bành trướng để uy hiếp xứ khác ở bên ngoài. Cho nên tôi nghĩ rằng vì kinh tế lẫn chiến lược, quan hệ đôi bên sẽ chỉ thêm căng thẳng. Và Bắc Kinh e sợ nhất là Mỹ mà giải quyết xong cuộc chiến khủng bố thì sẽ chú trọng hơn đến Đông Á như Ngoại trưởng Clinton đã thông báo từ năm 2009.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa và chúng ta sẽ còn trở lại hồ sơ này trong các kỳ sau.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.