Hôm nay,  

Giữa Chợ Đời!

14/07/201100:00:00(Xem: 7347)
Giữa Chợ Đời! 

hai_anh_em_bui_doi-large-contentHai anh-em bé Vũ bụi đời bán vé số ở bãi trước Vũng-Tàu. Ảnh chụp ngày 8, tháng 7, 2011.

Tác-giả: Diamond Bích-Ngọc
Âu cũng là một phước duyên cho gia-đình chúng tôi trong kỳ nghỉ hè năm nay, 2011. Được về thăm lại quê-hương, chia xẻ đến những kẻ khó khăn, tất bạt; họ vẫn ngày ngày sống trôi dạt bên đời gian nan vô cùng vất vả. Từ những trẻ em làng quê, người già cơ-nhỡ vùng đất Bắc xa xôi; đến các sinh-viên nghèo hiếu học được chúng tôi trao tặng học-bổng trong miền Nam và như mọi lần, không quên trao chút quà đến các thương-phế-binh Quân-lực Việt-Nam Cộng-Hòa tận trong các hang cùng, ngõ hẹp.
Vẫn biết Việt-Nam hôm nay có biết bao điều trái-nghịch: kẻ giàu - người nghèo quá cách biệt. Điềm Lành, sự Dữ như sáng, trưa, chiều, tối tuần-tự luân-phiên nhau tiếp diễn. Trong cái khó nghèo nẩy sinh tình-nghĩa và cũng trùng trùng sự lừa lọc, gian-tham. Giữa sang-giàu, tiền-của là sân-si của tội-lỗi, xa-đọa trầm-luân và hủy-diệt. Chúng tôi trở về đây giữa triệu triệu nhân sinh đang hăm hở, hối hả sống trong cảnh chen chúc mưu-sinh, khói bụi xe cộ ngất Trời và nạn nhân-mãn ngày càng gia-tăng trầm-trọng.
Tôi nhớ đến ánh mắt của những đứa trẻ ở bãi biển Vũng-Tàu trong một quán ăn buổi sáng. Hai anh em sà đến bàn chúng tôi kỳ-kèo:
“Cô ơi! Mua cho con tấm dzé số đi cô!”
Chúng đã lê-la khắp mọi quán và đều bị xua đuổi một cách vô-tình. Những hình-ảnh này đã quá quen thuộc từ năm đầu tiên; 1999 khi tôi trở về Việt-Nam làm phim tài-liệu đi từ Bắc chí Nam, đến tỉnh nào cũng gặp những trẻ em dạng này. Lang bạt, kỳ-hồ giữa chợ đờì mưu-sinh (kiếm sống). Lần đầu tiên gặp chúng, tôi cố nuốt không trôi phần ăn trước mặt và bối rối không biết xử trí ra sao. Nhưng bây giờ, hơn mười năm sau với bao nhiêu là kinh-nghiệm, tôi đã rất bình-tĩnh và vui vẻ hỏi chuyện:
“Các con tên gì" Bao nhiêu tuổi" Có đói bụng hông" ngồi xuống ăn sáng với gia-đình cô nhe!”
Chúng dạ thật to, liền sau đó một cậu bé khác độ 10 tuổi xin nhập bọn. Thằng em dơ tay (như trong lớp học) xin rằng:
“Cô cho con ăn hủ-tíu nhe cô!”
Tôi vừa gật đầu xong thì thằng anh lanh miệng xin liền:
“Còn con cho xin đĩa cơm gà được hông cô"”
“Con nữa! Cho con đĩa cơm sườn cô ơi!”
Tôi nhìn chúng vừa thương-tâm, vừa buồn cười trước những ánh mắt thơ dại và kêu bồi bàn dọn thức ăn cho chúng. Một chị trong quán ăn vừa lau bàn vừa chỉ từng đứa giới thiệu:

“Thằng nhỏ này tên Tài, 10 tuổi. Cha bị xe đụng chết, Mẹ bỏ đi lấy chồng khác. Nó ở với Bà nên đi bán vé số kiếm chút đỉnh.”
Tôi nhìn thẳng vào mắt cậu bé hỏi:
“Con ở một mình với Bà hả"”
Nó thành-thật trả lời:
“Dạ! Lúc trước ở với chú của con nữa. Giờ chú con vào tù rồi!”
“Sao dzậy"” Tôi hỏi lại liền. Nó bảo:
“Tại chú con là du-đãng, đi quýnh lộn dzới người ta nên bị công-an bắt.”
Tôi lại hỏi:
“Chú con tên gì"”
“Dạ! Tên Đen”.
Tôi giựt bắn mình; vì mười năm trước cũng tại quán này một thằng bé mang cái tên “Đen” rất lạ. Người nhỏ thó, lủi thủi vào đây bán vé số, chúng tôi cũng cho nó ăn uống như thế này. Thằng bé Tài hồn nhiên kể:
“Cô biết hông" Hồi trước chú con cũng đi bán dzé số như con đó!”
Thôi đúng rồi! Không thể nào lầm được. Thức ăn dọn ra, tôi âm thầm nhìn cách chúng ăn uống. Ngồi đối diện với tôi là hai anh em thằng bé Vũ 10 tuổi. Đứa anh dùng đũa đút phở cho đứa em 5 tuổi vì nó còn quá bé. Lạ thật! khi so sánh với những trẻ con của các gia-đình giàu có. Mạnh ai nấy lo, đâu có cảnh thằng anh đút cho đứa em ăn như thế này.
Trước khi từ-giã, tôi mua cho chúng hơn mười tấm vé số để cho người tài-xế đang đợi ngoài kia, cậu ta không dám vào ngồi cùng bàn ăn uống dù tôi đã hết sức kêu mời. Phu-quân tôi nửa đùa, nửa thật hỏi mấy bé:
“Nè! Các cháu. Cô vừa mua vé số xong, mỗi tờ là 10 ngàn đồng. Bây giờ chú bán lại hết cho mấy đứa nhưng mỗi tờ chỉ với giá 5 ngàn thôi. Tức là nửa giá, cháu nào mua lại không"”
Chúng nhíu mày suy-nghĩ đôi chút rồi lắc đầu quầy-quậy và cầm khư khư số tiền kiếm được trong tay. Điều này chứng tỏ rằng những tờ vé số ấy vô cùng khó khăn để đánh đổi thành tiền.
Trước khi từ-giã chúng, tôi bảo:
“Nè! Các con. Dù có nghèo hèn đến đâu cũng cố gắng sống thiện, sống tốt. Không ăn trộm, ăn cắp. Không trở thành du-đãng như chú con nhe chưa!”
Chúng vừa dạ nhỏ vừa ăn-uống say mê. Tôi bước đi lòng bỗng trùng đau quặn-thắt. Nỗi đau dành cho từng thế-hệ trẻ trôi qua mà tôi đang là một nhân-chứng thực-thể. Đời thằng Đen mịt mù trong tù-ngục. Rồi đời thằng Vũ, đứa em bé nhỏ của nó và thằng Tài sẽ ra sao trong mười năm tới nữa" Bi thương quá; những đứa trẻ giữa chợ đời Việt-Nam hôm nay.
Tác-giả: Diamond Bích-Ngọc; viết trong hồi-ký trên bước đường chia-xẻ tình-thương tại Việt-Nam, tháng 7, 2011.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trước hiện trạng kỳ thị, không chỉ bạo hành bằng lời nói, mà còn tấn công hung bạo và bắn giết khiến nhiều người đã thiệt mạng hoặc bị thương tích nặng, các chuyên gia và các nhà hoạt động đã đưa ra một số biện pháp để chống trả vấn nạn này và giúp các thành viên trong cộng đồng tự bảo vệ
Lực lượng “ăn cháo đá bát” rất đông và lan nhanh như bệnh dịch, nhưng chưa bao giờ được công khai cho dân biết để dân bàn, dân kiểm tra. Ngược lại, dân lại là nạn nhân của đám ong nuôi trong tay áo từ bao năm nay. Chúng nằm trong ngành Tuyên giáo, trước đây gọi là Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương. Sau lưng đảng còn có đội ngũ chuyên nghề nói thuê và viết mướn gồm Báo cáo viên và Dư luận viên được trả lương bằng tiền thuế của dân.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
Tôi là anh trưởng trong gia đình, với 9 đứa em cả trai lẫn gái, nên trách nhiệm thật khó khăn, từ nhân cách cho đến cuộc sống. Nhưng may mắn tôi gặp được những người anh ngoài xã hội để noi gương và học hỏi. Một trong số những nhân vật hiếm hoi đó, chính là anh Nguyễn Văn Tánh, người mà tôi đã có cơ hội được tiếp tay hỗ trợ và đồng hành cùng anh trong suốt 20 cuộc Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế Liên Hiệp Quốc tại thành phố New York từ 20 năm qua.
Tôi tha phương cầu thực gần như trọn kiếp (và may mắn lạc bước đến những nơi không thiếu bơ thừa sữa cặn) nên bất ngờ nhìn thấy mảnh đời cùng quẫn thì không khỏi chạnh lòng. Nghe tiếng mời chào khẩn thiết, nhìn những khuôn mặt khẩn cầu của đồng bào mình mà muốn ứa nước mắt.
Các định kiến tai hại đối với các phụ nữ Á Châu trong văn hóa đại chúng của Mỹ đã có từ ít nhất thế kỷ thứ 19. Từ đó, các nhà truyền giáo và binh sĩ Mỹ tại Á Châu đã xem phụ nữ mà họ gặp đó như là ngoại lai và dễ tùng phục. Các định kiến này đã ảnh hưởng luật di trú đầu tiên của Hoa Kỳ dựa vào chủng tộc, Đạo Luật 1875 Page Act, ngăn cản các phụ nữ Trung Quốc vào Hoa Kỳ. Giả thuyết chính thức là rằng, ngoại trừ được chứng minh ngược lại, các phụ nữ TQ tìm cách vào Hoa Kỳ đã thiếu tư cách đạo đức và là những gái mại dâm. Trên thực tế, nhiều người là vợ tìm cách đoàn tụ với những ông chồng là những người đã đến Hoa Kỳ trước đó. Khoảng cùng thời gian đó, các phụ nữ TQ tại San Francisco cũng bị làm dê tế thần bởi các viên chức y tế địa phương là những người sợ rằng họ sẽ lây truyền các bịnh lây lan qua đường tình dục cho các đàn ông da trắng, là những người sau đó sẽ lây lan cho các bà vợ của họ. Vào giữa thế kỷ 20, các căn cứ chiến tranh và quân sự của Hoa Kỳ tại TQ, Nhật, Phi Luật Tân,
Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Xuân Phúc … quả đúng là những kẻ thuộc giới ăn trên ngồi trốc. Họ là những hạt giống đỏ được gieo trồng từ miền Bắc, và đã ươm mầm thành cây. Loại cây này, học giả Phan Khôi gọi một cách lịch sự là cây Cộng Sản. Còn dân gian thì gọi là cây cứt lợn!
Nếu đảng đủ can đảm và ông Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng còn đủ bản lĩnh của một Lãnh đạo gương mẫu trong công tác phòng, chống tham nhũng thì hãy công khai cho dân biết Tổ chức Thanh niên của đảng đã làm được những gì cho dân cho nước trong 90 năm qua. Hay ngót 7 triệu Đoàn viên TNCS chẳng làm được trò trống gì, ngoải vai trò tay sai đã tuyệt đối trung thành với đảng và với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh?
Adam Smith và Karl Marx cùng được gọi chung là kinh tế cổ điển (classical economy) tức là lao động (labour) tạo ra giá trị (value.) Khác ở chổ Smith quan niệm thị trường tự do giúp mọi người hưởng thụ giá trị lao động còn Karl Marx lên án giá trị lao động của công nhân bị tư bản bóc lột. Vào đầu thế kỷ thứ 20 xuất hiện một cách nhìn mới là giá trị (value) do nơi tiện ích (utility) thay vì từ lao động (labour). Thí dụ một người đang khát uống ly nước đầu thì thật ngon, ly thứ nhì vừa vừa còn ly thứ ba đầy bụng nuốt không vô, tức là giá trị của mỗi ly nước giảm khi nhu cầu tiện ích hạ thấp. Quan điểm này gọi là Giá Trị Biên Tế hay Marginal Value.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.