Hôm nay,  

Mạnh Giỏi

19/08/201100:00:00(Xem: 6586)
Mạnh Giỏi 

Nguyễn thị Cỏ May
Người Việt nam gặp nhau, câu hỏi đầu tiên hỏi thăm nhau là «mần ăn thế nào" » Người tàu gặp nhau, họ hỏi thăm «ăn cơm chưa"» Người pháp gặp nhau, bắt tay và hỏi ngay «mạnh giỏi không " »
Qua cách chào hỏi này, người ta giải thích người Việt nam là dân tộc sợ nghèo, mong muốn trốn khỏi cảnh nghèo khó triền miên . Nhứt là dân nam kỳ trước kia, rời bỏ quê hương Miền Bắc, Miền Trung vốn nghèo, vào lập nghiệp trong Miền nam xa xôi, không bà con họ hàng nên quan tâm thăm hỏi nhau theo từng bước định cư. Người tàu bị ám ảnh bởi cái đói. Họ chết vì đói trưóc khi chết vì bịnh tật nên ai được ăn cơm rồi là hạnh phúc cho ngày hôm đó. Cũng từ nổi sợ đói này, cái ăn trở thành ưu tiên nên người tàu không có ý niệm về vệ sinh, bịnh tật . Bịnh chết, nhưng chết chậm hơn đói nếu bịnh mà có ăn . Muốn có ăn, phải có tiền . Người tàu dốc tâm làm ăn để có tiền .Triết lý « lượm bạc cắc » ra đời . Theo đuổi mục tiêu tối thượng « lượm bạc cắc », người tàu không quan tâm đến những hệ quả của việc lượm bạc cắc nên hàng giả, độc hại chết người, hàng do tù nhân sản xuất trong điều kiện thiếu vệ sinh làm nhiểm độc truyền nhiểm, … không làm người tàu thay đổi đường lối lượm bạc cắc của họ. Đối với họ, không còn lượm bạc cắc nữa mới là điều sanh tử .
Để minh họa thêm cái triết lý « lượm bạc cắc » này, Cỏ May xin thuật lại một câu chuyện xưa về một người do thái và một người tàu trên đường đi tỵ nạn chiến tranh hồi Thế chiến vừa qua Nên nhớ do thái cũng là một dân tộc mê tiền. Sống chết vì tiền. Người do thái chỉ biết lượm tiền bỏ túi, cột chặc lại. Trên thế giới ngày nay, những nhà tài chánh giỏi, phần lớn vẫn là do thái . It nhứt cũng phải có gốc gác do thái .
Theo lên tàu chạy trốn binh lửa, một người do thái chẳng may trợt chân té xuống biển . Không ai để ý cứu vớt vì tàu đông nghẹt người . Anh do thái từ từ chìm xuống và êm ái chiu vào một khoảng trống như một hành lang lớn . Khi chân anh chạm xuống và bước đi tới được, anh mới biết anh đang trong bụng một con cá mập khổng lồ . Anh chẳng những không lo sợ , trái lại, anh còn vui mừng vì nghĩ từ nay, anh làm ăn không còn bị nạn cạnh tranh nữa . Anh phấn khởi tiến sâu vào . Bổng anh giựt mình lấy làm kinh ngạc vì kìa, trước mặt anh, một anh ba tàu đang ngồi chểm chệ đếm bạc cắc !
Nước Pháp phát triển, dân pháp thoát khỏi cảnh nghèo, đói . Điều làm họ lo sợ là bệnh tật, chết chóc nên gặp nhau, họ hỏi thăm « mạnh giỏi chớ " » .
Sau Đệ II Thế chiến, Chánh phủ Pháp lập ra Bảo hiểm xã hội, trong đó có bảo hiểm sức khỏe, thât nghiệp, hưu trí, …Sự an toàn cho đời sống người dân được bảo đảm khá tốt . Nhờ đó tuổi thọ của mọi người được tăng khá cao . Và người già ở Pháp ngày nay được xếp vào từng lớp sung sướng nhứt .
Lớp tuổi 65/70 hạnh phúc tuyệt vời
Trong lúc tình hình xã hội pháp đang sôi nổi những cuộc biểu tình, xuống đường, đình công phản đối xí nghiệp xa thảy công nhân do kinh tế khủng hoảng, dự án luật cho phép công nhân làm việc tới 70 tuổi, thì một cuộc điều tra vừa công bố kết quả những người hạnh phúc nhứt đòi là những người thuộc lớp tuổi từ 65 đến 70 . Cuộc điều tra này do Viện Thống kê pháp thực hiện từ năm 1975 theo đó đường biểu đồ Hạnh phúc đi lên cao điểm là 65 / 70 tuổi . Và đồng thời, một cuộc điều tra khác về phúc lợi của dân chúng cũng cho kết quả tưong tợ . Không tùy thuộc điều kiện đời sống vợ chồng hay mức lợi tức . Khởi đầu, tức từ tuổi 20, con người ta sống hạnh phúc vì chưa phải thật sự đối phó với những khó khăn trong đời sống . Thường còn sống dưới sự bảo bộc của cha mẹ và mặt khác, tuổi còn trẻ nên sống vô tư . Hạnh phúc chỉ bắt đầu đi xuống ở tuổi bốn mươi , sau đó mới từ đi lên, và đi lên mải cho đến cao điểm . Đường biểu diển hạnh phúc này dường như không bị phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử . Cứ lớp tuổi ấy thì đi theo sát những bước thăng trầm của cuộc đời . Dù những người sanh ra và lớn lên trong thời đại kinh tế sung mảng hay khủng hoảng như vào thập niên 70 .
Một cơ quan điều tra khác, tiếp theo, xác nhận một cách khách quan lớp tuổi 65 / 70 hưởng nhiều ưu đải xã hội hơn hết . Tài sản của lớp người trên 50 vượt hơn 50 % so với mức trung bình . Lợi tức của họ cũng hơn lợi tức trung bình 15 % . Hồi tháng 11 vừa qua, Viện Thống kê quốc gia cho biết những người hưu trí, nhờ lợi tức cao, có được mức sống ngày nay sắp xỉ với mức sống của người còn đi làm việc .

Sự thoải mái trong đời sống của người già ở Pháp, ở một mặt khác, nhờ sự ưu đải của hệ thống đóng góp cho chi phí xã hội như bảo hiểm sức khỏe, một số hàng hóa dành cho người già bị thuế nhẹ, thuế lơi tức thấp hơn ,…Nhìn lại, thời gian của họ đóng góp quỉ an sinh xã hội tương đối ngắn hơn lớp con cháu của họ ngày nay . Ở Việt nam thời trước, ông bà, cha mẹ già nhờ vào lòng hiếu thảo của con cái phụng dưởng . Ngày nay, họ nhờ vào quỉ an sinh xã hội thay thế vai trò con cái . Hay nhưng không tránh khỏi mặt tiêu cực của vấn đề ! Biết sao giờ "
Về mặt tinh thần, người già hưu trí có nhiều thì giờ đi chơi, con cái lớn, có gia đình nên không phải lo cho chúng nó nữa .
Tuy nhiên, sự hụt hẩng này được lớp hưu trí bù đắp lại cho con cháu như giúp con cháu đi học, mua sấm nhà cửa hoặc chuiyển nhượng quyền thừa kế .
Nhưng đời sống thường có mặt trái của nó . Trên thực tế không phải tất cả người già hưu trí đều được hạnh phúc như nhau vì đều có lợi tức cao .
Có nhiều người già ở lớp tuổi 65 / 70 sống đầy khó khăn . Nhứt là đàn bà . Sự cách biệt về mức sống trong cùng một lớp tuổi hưu trí lớn hơn so với lớp tuổi còn lao động.
Theo Viện Thống kê quốc gia thì 10 % hưu trí có lợi tức khiêm tốn chỉ sống với 888 euros / tháng . Họ được xếp hạng trên mức nghèo qui định là 880 euros / tháng . Những khó khăn này có xu hướng giảm từ hai mươi năm trở lại đây, nhưng vẫn còn tác hại mạnh đến phụ nữ . Thường người phụ nữ đi làm không đủ số năm qui định cho hưu trí, sanh đẻ con cái làm gián đoạn, làm việc nửa ngày, lương bổng kém hơn so với nam giới tuy cùng làm một nghề giống nhau,….Vì vậy mà mức hưu bổng trung bình của người phụ nự pháp năm 2004 kém hơn nam giới 38 % . Sự chênh lệch này có giảm nhưng vẫn còn hằn sâu.
Các nước Bắc âu
Theo thỏa thuận năm 1990, lớp tuổi lao động ở Pháp phải đóng góp cho lớp trươc nhiều hơn vì lớp này đã nâng đở lớp trước nữa . Đó là sự tương thân tương trợ giữa các thế hệ với nhau nhưng lại làm phát sanh những bất bình đẳng trong cùng thế hệ : tuổi trẻ thất nghiệp, học hành thất bại, lương bổng hạ, nợ, … Những hiện tượng này không tránh khỏi gây sự nghi ngờ vế giá trị của hệ thống hưu trí theo tái phân phối còn được áp dụng ở Pháp cho đến ngày nay . Trong lúc đó, các quốc gia bắc âu chủ trương tổ chức hưu trí theo một qui trình cân đối dài hạn trong cừng một thế hệ . Thanh niên đi làm sớm, sau đó mới trở lại đi học Đại học, tuổi trẻ đếu đi làm hết, giá trị bằng cấp ổn định, tất cả các thế hệ đều tham gia nghiệp đoàn và chánh trị, sự vận hành rât đều hòa giữa công và tư, nhứt là ưu tiên cho tương lai thanh thiếu niên và giáo dục .
.Sự đầu tư cho thế hệ sau là những suy nghĩ thường xuyên, chính chắn, xây dựng thiệt tình . Những quốc gia theo văn hóa anglo-saxons cũng rất nghiêm túc trong cách xử lý xã hội, nhứt là chánh sách đối với lớp tuổi trẻ mới bước vào đời sống lao động . Nhưng ngày nay, do khủng hoảng tài chánh, một số lớn thanh niên bị phá sản nặng nề .
Hoàng hôn vào năm 2015
Ngày nay, người hưu trí đang sống ở tột đỉnh hạnh phúc . Ở tuổi 60, họ làm chủ cơ ngơi mà người đang đi làm không thể nào với tới . Và mức sống của họ so sánh ngang hàng với lúc họ còn đi làm .
Nhưng thống kê chỉ mới phát họa hình ảnh huy hoàng của những người hạnh phúc mà chưa kịp nhìn về chân trời năm 2015 . Thật vậy, lớp tuổi sanh sau năm 1955 sẽ thấy trở thành nạn nhân của những chánh sách điều chỉnh hệ thống an sinh xã hội đang thực thi . Thất nghiệp, lương bổng thấp,, nhiều chổ hỏng trong quá trình lao động, … sẽ dẩn đến quyền lợi bị mất mác khi đến tuổi về hưu . Và năm 2015 sẽ là hoàng hôn của những người già hạnh phúc .
Nhưng dầu sao, tuy hưu bổng có kém, người ta vẫn cho rằng người ở tuổi từ 60 trên khắp thế giới vẫn là những người giàu hơn hết bởi họ nắm giử nhiều của cải quí giá của nhân loại . Trên tóc của họ có đầy bạc . Trong răng của họ có vàng, bạch kim, sứ .Trong gan, thân của họ có nhiều đá quí . Trong máu của họ là cả mỏ đường, chất béo . Và trong bao tử của họ là mỏ khí đốt (gaz) .
Ai dám nói trước mắt họ là hoàng hôn " 
Nguyễn thị Cỏ May

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.