Hôm nay,  

Lượng Cả Bao Dung

25/09/201100:00:00(Xem: 5707)
Lượng Cả Bao Dung

Đòan Thanh Liêm
Vào năm 1945-46, hồi tôi vào tuổi 11-12 còn ở cấp tiểu học, thì được đọc cuốn sách “Tâm hồn cao thượng”. Cuốn này do nhà giáo Hà Mai Anh dịch từ bản tiếng Pháp có nhan đề là “Grands coeurs” của một tác giả người Ý tên là Edmond d’Amicis thì phải. Phải nói là lớp thiếu niên chúng tôi thời đó đã say mê đọc cuốn sách thật là hấp dẫn với những tâm tình, nhân cách và hành động thật là cao đẹp của các nhân vật cũng trạc tuổi ngang với bọn tôi thôi. Trước đó, thì chúng tôi được học sách “Luân lý giáo khoa thư” gồm những bài văn vừa giản dị, trong sáng, mà có tác dụng sâu sắc, bền vững cho việc rèn luyện nhân cách và tâm hồn cho thế hệ học sinh thời tiền chiến ấy.
Sau này, khi lên bậc trung học, thì chúng tôi được đọc cuốn “Cổ học tinh hoa” và các sách trong tủ sách “Học làm người”, rất thịnh hành trong các thập niên 1950-60 ở miền nam Việt nam. Phải nói là hồi chúng tôi còn nhỏ bé, thì nền nếp giáo dục trong các gia đình vẫn còn chịu ảnh hưởng đậm đà cuả Nho giáo ngày xưa. Chúng tôi được nhắc nhở thường ngày bởi những lời khuyên răn như những câu: “Giấy rách phải giữ lấy lề. Đói cho sạch, rách cho thơm. Có công mài sắt, có ngày nên kim. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Gần mực thì đen; gần đèn thì rạng, v.v…”
Riêng trong gia đình tôi, thì ông nội là một cụ đồ nho mà trong làng nước ai cũng gọi là Cụ Đồ Nhuận. Ông tôi mất khi tôi mới có 6-7 tuổi, nên tôi chẳng được học lấy một chữ nho nào cuả cụ. Tuy vậy, anh chị em chúng tôi vẫn được cha mẹ rèn cặp, uốn nắn chu đáo, theo đúng đường lối cuả các bậc thánh hiền thuở trước. Chúng tôi thường được nhắc nhở là phải cố gắng gìn giữ được “nền nếp gia phong, gia đạo cuả dòng họ nhà mình”. Phải biết tránh không bao giờ mà “làm điều gì xằng bậy, khiến gây tiếng xấu cho gia đình,” v.v…
Còn ở trường học, thì chúng tôi vẫn được các thầy cô nhắc nhở là: “Tiên học lễ, hậu học văn. Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Làm trai cho đáng nên trai. Xuống đông, đông tĩnh; lên đoài, đoài yên v.v…” Rõ ràng là vào thời đó, nền giáo dục học đường đã bổ túc cho giáo dục gia đình rất nhiều. Các nhà giáo vẫn được sự quý trọng, mến phục cuả cha mẹ phụ huynh học sinh; bởi lẽ họ không phải chỉ truyền thụ kiến thức cho môn sinh, mà còn dậy giỗ cả về lễ nghĩa, rèn luyện nhân cách cho học trò cuả mình nữa. Vì thế mà dân gian mới thường nói: “Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy.”Trong hệ cấp xã hội ngày trước, hồi chế độ quân chủ còn thịnh hành, thì cha ông chúng ta xếp đặt vị trí cho ông Thầy rất cao, chỉ đứng sau nhà Vua, mà lại đứng trước cả người Cha cuả mình. Đó là “Quân, Sư, Phụ”. Và cái lề lối giáo dục, đào tạo con người từ trong mỗi gia đình đến ngòai học đường, thì không phải chỉ dùng lời nói, mà điều cốt yếu chính là sự truyền thụ cái tấm gương tốt đẹp, cái nhân cách trong sáng cuả chính bậc làm cha mẹ, làm thầy dậy cuả môn sinh, đệ tử. Như đã được ghi lại trong khẩu hiệu sau đây: “Dĩ thân nhi giáo”. Tức là sự giáo dục chủ yếu phải bắt đầu khởi sự từ chính cuộc sống đạo hạnh, lương thiện gương mẫu cuả cha mẹ, cuả thầy cô giáo mà cảm hoá, thuyết phục được con cháu, môn sinh noi theo. Ở bên Âu Mỹ, người ta cũng nói tương tự như thế với câu “Transmission from heart to heart = Dĩ tâm truyền tâm”, hay là : “Chuyển giao Ngọn lưả = Transfer of the Flame”. Chính bà Indira Gandhi, khi làm Thủ Tướng Ấn Độ là người đã trao đổi về cái sự “Chuyển giao ngọn lửa naỳ” với nhà báo nổi danh cuả Pháp là Jean Jacques Schriver, chủ bút tờ báo Express hồi thập niên 1970.
Có thể nói: Nhờ được đào tạo uốn nắn vững chắc ngay từ thời thơ ấu trong ngưỡng cửa gia đình và nơi trường học trong tinh thần đề cao giá trị luân lý, đạo đức nhân nghĩa như vậy, mà khi được tiếp cận với văn minh Âu Mỹ vốn thiên về tiến bộ khoa học, kỹ thuật nhiều hơn, thì thế hệ chúng tôi phần đông đã không đến nỗi mất phương hướng đến độ bị mê hoặc, choáng váng trước những thành tưụ cuả người, mà khinh chê loại bỏ cái vốn liếng tinh thần rất phong phú cuả truyền thống dân tộc, cũng như cuả gia tộc dòng họ nhà mình. Một trong những lời giáo huấn mà chúng tôi thường được nhắc nhở, dậy bảo kỹ lưỡng nhất , đó là câu nói thật đơn giản, gọn gàng như sau: “Con phải sống cho ra một con người tử tế, một bậc chính nhân quân tử“. Và cái tiêu chuẩn đức độ cao quý cuả người quân tử biết” trọng nghỉa khinh tài” như thế, thì luôn được đặt ở vị thế đối nghịch với “tư cách thấp hèn, đê tiện cuả kẻ tiểu nhân“,với lòng dạ hẹp hòi, tham lam vô độ, mà ngôn ngữ, cử chỉ, hành động thì đều rất là thô lỗ, vũ phu bỉ ổi.
Như đã ghi trên tiêu đề cuả bài này, người viết muốn trình bày về cái tinh thần đại lượng bao dung mà hiện đang được đề cao cổ võ tại khắp nơi trên thế giới ngày nay, trong mọi lãnh vực cuả đời sống xã hội, từ văn học, tư tưởng đến chính trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo. Cụ thể là cả Liên Hiệp Quốc cũng đã chọn năm 1995 làm “Năm Quốc Tế Khoan Dung = The International Year of the Tolerance”. Và tôi xin được dùng cả hai chữ “Bao Dung” và “Khoan Dung” như là đồng nghiã để diễn tả ý nghĩa danh từ “Tolérance” đang rất thịnh hành hiện nay. Tôi vẫn ghi nhớ cái hồi còn học năm Đệ Nhất ở trường Chu văn An Hanoi vào năm 1953-54, thì thầy Nguyễn ngọc Cư dậy môn Triết học có nhắc chúng tôi là “Quân tử hòa nhi bất đồng”, tức là có ý nói : Người trượng phu quân tử thì lúc nào cũng giữ được tinh thần hòa nhã, nhân ái, mặc dầu vẫn có sự khác biệt ý kiến, khác nhau về quan điểm, lập trường thế này, thế nọ. Thầy Cư còn nói là bên tiếng Pháp, thì có câu tương đương: “L’unité dans la diversité = Thống nhất trong sự dị biệt “. Anh Earl Martin đã từng làm việc xã hội nhân đạo ở Quảng ngãi hồi trước năm 1975, thí anh dịch câu này ra tiếng Anh là: “Civility even in disagreement”. Và cách nay mấy tháng, tôi cũng đã viết một bài nhan đề là “Quân tử hòa nhi bất đồng” rồi.

Vì thế, trong bài này, tôi sẽ không lặp lại những điều đã được trình bày trước đây nữa. Tôi chỉ muốn ghi vắn tắt trong một vài điểm như sau :
Thứ nhất: Truyền thống văn hoá tốt đẹp cuả dân tộc ta là luôn đề cao tinh thần đạo đức nhân nghĩa, đòi hỏi những con người ưu tú mà càng được thụ hưởng nhiều may mắn ưu đãi cuả xã hội, thì càng phải thực hiện nghiã vụ “Phải trả món nợ đó lại cho đất nước, cho xã hội một cách sòng phẳng”. Điều này thật đơn giản, phù hợp với lương tri và lẽ phải. Dân gian ta vẫn nói : “Ơn đền, Nghiã trả “ là cũng phù hợp với lẽ công bằng, phải chăng như thế.
Cũng y hệt như người Mỹ thường nói: “Give and Take”. Người càng được xã hội chăm lo về mặt học hành nhiều, như ở bậc đại học hay được gửi đi du học tại nước ngoài, thì càng phải biết lo mà “trả cái món nợ đèn sách lớn lao” đó. Bạn được hưởng thụ nhiều ân huệ, nhiều lợi lộc cuả dân tộc cung ứng cho, thì bạn phải tỏ ra “biết điều”, để luôn tìm mọi cách thế mà trả lại cái ân nghiã đó. Đó là điều thật đương nhiên, sơ đẳng nhất, đơn giản nhất trong cách xử thế thường nhật cuả con người trong xã hội vậy. Điều này người càng được học nhiều, thì lại càng phải thấm nhuần cái tinh thần trách nhiệm lớn lao, nặng nề của mình đối với đất nước.
Thứ hai: Và còn cao hơn thế nưã, người trượng phu quân tử còn phải có tấm lòng thanh cao, đại lượng, luôn luôn thông cảm với những hạn chế, khuyết điểm và cả những sai lầm yếu đuối, sa ngã cuả người khác. Vì thế mà có sự khoan dung đối với mọi người, đặc biệt là với những người kém may mắn hơn mình. Tiếng Anh có chữ “Gentleman”, thì cũng hàm chứa cái tính cách thanh lịch, nho nhã (gentle) tương tự như chữ “Người sĩ phu quân tử” trong xã hội ta vậy.
Câu nói “Lượng cả bao dung” càng hàm chứa ý nghiã luân lý đạo đức rất sâu sắc, mà ta có thể khai triển ra như sau: ”Người có lòng rộng rãi, cao cả, thì phải có sự bao dung, thông cảm đối với ngưới khác”. Và ngược lại, thì: “Người nào có sự bao dung, rộng lượng đối với người khác, đặc biệt là đối với người đã làm điều sai trái xúc phạm đối với chính bản thân mình, thì mới xứng đáng được coi là bậc trượng phu quân tử, là người có “tấm lòng rộng rãi, đại lượng”. Bất kỳ người lãnh đạo nào, thì cũng đều phải có được cái đức độ cao thượng, bao dung như thế, để mà lôi cuốn, thuyết phục được số đông đảo quần chúng “tâm phục, trí phục” và nhất tề noi theo con đường phục vụ lý tưởng quốc gia dân tộc như mình.
Cái tinh thần cao thượng, cái đức độ nhân bản, nhân ái này đã được cha ông chúng ta vun đắp, xây dựng trong từng dòng họ, từng gia thế. Nhờ vậy mà đã sản sinh ra được nhiều nhân vật kiệt hiệt xuất chúng, vừa có tài năng, vừa có đức độ, để mà ra tay giúp dân, giúp nước, để còn giữ vững được sơn hà xã tắc trong tinh thần “trên thuận, dưới hoà”, làm cho bá tánh muôn dân luôn luôn được “an cư lạc nghiệp”.
Thứ ba: Hội nhập với thế giới văn minh tiến bộ trong thế kỷ XXI hiện nay, chúng ta cần phải vừa có lòng tự tin nơi chính căn bản đạo đức truyền thống cuả dân tộc mình, mà cũng vừa có tinh thần phục thiện, hướng thượng để học tập, tiếp thu (receptivity) được những tinh hoa, tiến bộ trong các nền văn hoá nhân bản và nhân aí cuả những quốc gia khác, dân tộc khác. Có như vậy, thì ta mới vượt thoát ra được cái não trạng hủ lậu, ngoan cố kiêủ “ếch ngồi đáy giếng coi trời chỉ bằng cái vung đậy nồi”, khiến cho đất nước cứ lạc hậu, thua kém quá xa so ngay với mấy nước láng giềng cận kề bên cạnh với mình. Nói vắn tắt lại, thì ta phải cùng làm hai việc bổ túc cho nhau, để mà góp phần đưa đất nước tới sự thịnh vượng, phú cường với nhân tâm thuận thảo, yêu mến bảo bọc lẫn nhau. Hai việc đó chính là:
A/ Phục hồi lại truyền thống nhân bản và nhân ái cuả dân tộc.Cái gia tài đạo đức tinh thần này đã do cha ông ta dầy công xây đắp từ bao nhiêu đời, để truyền lại cho thế hệ chúng ta ngày nay. Nhưng mà, tiếc thay nó đã bị chối bỏ, tiêu diệt, chôn vùi đi bởi những người từng bị huyễn hoặc vì cái chủ thuyết “bạo lực cách mạng, hận thù giai cấp…” cuả ngoại bang, để rồi đem du nhập cái ác đức đó vào nước mình, khiến đã gây ra bao nhiêu thảm cảnh đau thương, tang tóc, oan khiên tàn bạo suốt mấy chục năm qua, không bút mực nào có thể tả xiết được. Nay đã đến lúc chúng ta phải hồi tâm phản tỉnh lại, để mà cùng nhau tiếp tay “xây dựng lại cơ đồ non nước mình”.
B/Tiếp thu một cách có chọn lọc khôn khéo tất cả học thuật, tư tưởng tiến bộ của thế giới, nhằm làm cho sung mãn, phong phú hơn mãi cái lâu đài văn hoá đạo đức, lễ giáo đã có từ ngàn xưa cuả dân tộc Việt nam chúng ta. Cụ thể ta có thể bắt đầu với sự xây dựng và củng cố lại khu vực “Xã hội Dân sự”, bằng cả cái nguồn vốn tinh thần có sẵn trong truyền thống dân tộc, cộng vào với nguồn vốn văn hoá đạo đức tiếp thu được cuả các dân tộc khác trên thế giới.
Đó là điều khả dĩ chúng ta có thể làm được trong khả năng tầm tay với cuả mình, vào thời điểm những năm đầu cuả thế kỷ XXI này, trong bối cảnh toàn cầu hoá về mọi phương diện khoa học kỹ thuật, cũng như về mặt văn hoá tư tưởng nữa vậy.
Để kết thúc bài viết đã khá dài này, tôi xin được ghi lại mấy câu thơ làm ở trại tù Z30 D ở Hàm Tân, Phan Thiết năm 1995 như sau:
Hưởng Ứng Năm Quốc Tế Khoan Dung (1995)
Lượng cả bao dung đấng trượng phu
Quân tử hiếu hoà chẳng oán thù
Bốn bể một nhà ta vun đắp
Người người vui sống thoả niềm mơ./.
California, Cuối năm Mậu Tý 2009
Đoàn Thanh Liêm

Ý kiến bạn đọc
24/09/201122:18:33
Khách
Hưởng Ứng Năm Quốc Tế Khoan Dung (1995)
Lượng cả bao dung đấng trượng phu
Quân tử hiếu hoà chẳng oán thù
Bốn bể một nhà ta vun đắp
Người người vui sống thoả niềm mơ./.
California, Cuối năm Mậu Tý 2009
Đoàn Thanh Liêm
Có phải ông là 1 trong 36 người kính gởi thơ ngỏ (?) cho CS không ? Ý tưởng " chẳng oán thù, một nhà vun đắp .... " có thể là nỗi niềm hay tâm nguyện của chính ông nói với chính ông. Chứ còn cho đối tượng CS thì e rằng ông quá ngây thơ chăng ? CS có tổ quốc và đồng bào đâu. Điều này sao ông không nhìn thấy thì trí óc ông phải chăng có vấn đề ? Đối với chúng chỉ là quyền lực , vơ vét , giết hại bỏ tù những người đòi dân chủ , tự do, bán đất, biển cho Tàu để giữ ghế... Nói chuyện hoặc thư ngỏ cho chúng là ngây thơ còn hơn trẻ nít.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.