Hôm nay,  

Thư làm quen

06/12/201100:00:00(Xem: 8382)

Thư làm quen

xichhung

Gởi người em gái chưa quen

KBC…, ngày…tháng…năm 197…

Em mến,

Chắc em ngạc nhiên lắm khi nhận thư này. Thôi thì đầu thư anh xin dài dòng một chút rồi em sẽ nhớ ra nhá!

Cách nay nửa tháng, trưa hôm đó vào một ngày trời trong nắng đẹp hiếm hoi trên đỉnh sương mù Holloway, một chiếc trực thăng thả nhóm học sinh trường em đến thăm và ca hát giúp vui cho lính tráng của tiểu đoàn anh trên tiền đồn này. Em còn nhớ không, hôm đó lính tráng tụi anh đã nổi hứng nhào vô đóng góp chút ít, nhờ thế mà vui nhộn chi lạ.

Cứ nhớ lại tiếng cười giòn tan, ánh mắt sáng ngời, cùng nét mặt rạng rỡ trên những gương mặt phong sương sạm nắng đầy khắc khổ vì chiến trận của những người lính ấy cũng đủ biết rằng buổi văn nghệ dã chiến đó nó đượm tình hậu phương - tiền tuyến biết dường nào, nó thắm tình quân - dân biết dường nào.

Em à, người lính tác chiến xa nhà như tụi anh đây cũng cần có những lúc vui nhộn như thế để cái đầu bớt căng thẳng đi, để quên bớt đi những hiểm nguy vào sinh ra tử đã qua, để thấy rằng hậu phương vẫn luôn thương yêu đặt hết tin tưởng nơi người lính; có thế người lính mới vững niềm tin mới chắc tay súng hầu đem lại yên vui cho hậu phương, mang lại thanh bình cho đất nước. Mục đích cao cả của người lính chỉ có thế thôi đó em.

Nhớ lại, buổi sinh hoạt bên chiến hào ấy thật là hào hứng. Mở đầu, hai em học sinh nam nữ song ca bài Em Hậu Phương - Anh Tiền Tuyến nghe tình tứ làm sao:

Em hậu phương còn anh nơi tiền tuyến

chúng ta cách xa rồi nhưng tình đâu có chia phôi

Mình gọi tên nhau nhớ nhau trong mộng thôi

tha thiết yêu nhau mà vui

Lính tráng thấy “phê” quá, lim dim đôi mắt, nhịp tay lên báng súng mà thả hồn theo lời ca tiếng đàn. Hình như có một vài tên đang “vướng” mối tình hậu phương - tiền tuyến nào đó nên cái đầu cứ gật gù đong đưa theo lời ca. Thấy thương sao là thương. Rồi một em nữ sinh đơn ca bài Tâm Sự Của Em nghe…ướt át mà đậm đà quá:

Ai nói với anh xa anh nhiều rồi em quên nụ cười

Tàn đêm ra đứng nhìn trăng đếm sao thương về xa xôi

Không không trăm lần không ngàn lần không

Không không trăm lần không vạn lần không

Anh cứ vui tranh đấu cho quê hương hoà bình

xây đắp cho tương lai đời mình

đó là ước nguyện của em và của anh

Chú lính trẻ mang máy của anh đáp lễ bài Ai Nói Với Em, qua giọng hát khoan thai trầm ấm:

Ai nói với em lính không sầu nhớ

không có trái tim đắm say mộng mơ

Ai nói với em tình người lính trẻ

nồng nàn nhưng nhiều dâu bể

không như cung đàn lời thơ

Rồi một Hạ Sĩ tiểu đội trưởng với chất giọng kích động sôi nổi, nó…gào lên:

Một trăm em ơi chiều nay một trăm phần trăm

Một trăm em ơi chiều nay một trăm phần trăm

Người yêu anh ơi giờ đây lại cấm trại rồi

Nào đâu nào biết tâm tư người lính

Lòng anh nao nao mỗi khi ta hẹn nhau

với em tâm tình

À này…Em biết không, mấy ngày nay những lúc rảnh rổi anh đọc cuốn Đặc San Lá Thư Không Gởi giành riêng cho lính do trường em thực hiện. Say sưa đọc qua đọc lại, anh rất ngạc nhiên và nghĩ đây là một cuốn đặc san thật đặc biệt vì chưa có trường nào thực hiện với nội dung gồm toàn là văn - thơ - nhạc giành cho lính cả. Thay mặt đơn vị, anh chân thành gởi lời cám ơn trường em đã có tấm lòng thật thiết tha nồng hậu với lính.

Có một điều mà anh cứ tủm tỉm cười hoài là tấm hình của một cô nữ sinh in trên đầu bản nhạc Lá Thư Không Gửi thấy sao giống cô bạn học dưới anh ba lớp ngày xưa quá. Giống một tám một mười. Giống từ mái tóc, từ ánh mắt với cặp kính cận, giống tới sóng mũi, tới nụ cười. Nhớ kỹ lại, thì ra đó là tấm hình của em, và em đã hát thật hay bài ca này:

Đứng trước nhau ngại nói

đường xa không cùng lối viết thư thay lời

Muốn viết câu hỏi thăm

ai bao nỗi niềm vơi mà không quen người

Đây cũng là bài ruột của anh, nên anh tự tin bước vào hát tiếp:

Vẫn biết vui đời lính

ai không vương tâm tình

giấy trăng nét mực xanh

trăng lên xuyên qua mành

không gian giăng mây thành

vạn câu thương nhớ viết lên lời thư

Vậy là em và anh tình cờ bất ngờ trở thành…đôi song ca không hẹn mà thành. Hát hết bài, ông tiểu đoàn trưởng thích quá chạy đến ôm chặt lấy “đôi song ca” mà suýt soa khen ngợi: “Hay quá…Hai em ca diễn hay quá…Tuyệt quá…! Cám ơn hai em…!”. Lính tráng tụi nó vỗ tay rần rần, huýt sáo ỏm tỏi…Lúc đó, em thì sao không biết, chứ anh thì…chết trân tại chỗ, ngộp thở vài giây…

Cuối cùng, trong một hoạt cảnh sống động, các em cùng lính tráng tụi anh đồng ca bài Trên Đầu Súng Ta Đi thật hùng dũng để lên tinh thần cho những ngày lao vào binh lửa sắp tới:

Trên đầu súng ta đi tổ quốc đã vươn mình

Trên lưỡi lê căm hờn hờn căm như triều sóng

Ôi xôn xao chiêng trống hối thúc

đã giục giã khắp chốn thôn làng

Ôi lửa thiêng dậy bập bùng

tay đốt lửa tay vung kiếm

Buổi hát bên chiến hào này kéo dài chừng hai tiếng đồng hồ thôi, nhưng ai nấy cũng đều hả hê vui thích. Ông tiểu đoàn trưởng vỗ vỗ vai anh, nói: “Được lắm…Được lắm…Bận sau mần nữa nghen mạy!”.

À…Anh hỏi nhỏ chút nha:

- Cho anh làm quen với em được không? Em đừng ngại…Chỉ là làm quen thôi. Người lính tiền đồn này rất thèm nhận được những lá thư hậu phương từ em…Thèm lắm đó…! Và em nhớ đừng bao giờ hát đi hát lại câu này nhé:

Thư này em viết nhưng không bao giờ

không bao giờ em gửi cho người em…

Mong thư em lắm đó nha!

Người anh chưa quen,

“Song Ca”

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.