Hôm nay,  

Collaborators

30/01/201200:00:00(Xem: 10559)
Collaborators

cong_an_dap_mat_dan-large-contentCông an CSVN đạp mặt người biểu tình.

Quang Tường

Trong Thế Chiến Thứ Hai, Phát-xít Đức xâm chiếm các quốc gia Âu châu như Pháp, Bỉ, Hòa Lan, Đan Mạch, Tiệp Khắc, Ba Lan, Na-Uy, v.v.... Tại các quốc gia bị chiếm đóng, các chính phủ bù nhìn hợp tác với quân đội Phát-xít Đức ở nhiều mức độ khác nhau. Sử sách gọi chung các thành phần hợp tác này là Nazi collaborators.
Để thi hành những chính sách, luật lệ do quân xâm lược Phát-xít Đức đề ra, các chính phủ bù nhìn phải nhờ đến lực lượng cảnh sát, mật vụ bản xứ. Mức độ tuân hành của các lực lượng này có khác biệt nhau tùy theo quốc gia. Ở Na-Uy, lực lượng cảnh sát chọn thái độ thụ động, hững hờ, làm chiếu lệ. Nếu có lệnh của Phát-xít Đức bắt giữ những người tình nghi có liên hệ đến lực lượng kháng cự thì cảnh sát Na-Uy sẽ gọi điện thoại trước đến nhà những người này và thông báo là có lệnh bắt họ và yêu cầu họ có mặt ở nhà ngày mai để cảnh sát đến bắt. Dĩ nhiên là khi cảnh sát đến nhà họ thì các nhân sự liên hệ đã trốn vào rừng hay đã đi biệt tích!
Ở một thái cực hoàn toàn khác với cảnh sát Na-Uy là lực lượng cảnh sát (gendarme) và mật vụ Pháp của chính phủ bù nhìn Vichy dưới thời chiếm đóng của Phát-xít Đức từ 1940-1945. Sự tuân lệnh, tận tụy, cần mẫn của lực lượng cảnh sát và mật vụ Pháp vượt quá sự mong đợi của chính các viên chức Phát-xít Đức. Cảnh sát Pháp rất sốt sắng để lùng sục, lùa bắt dân Pháp gốc Do Thái và những người dân Âu châu gốc Do Thái đang tỵ nạn tại Pháp để đưa vào các trại tập trung trước khi chuyển giao cho Phát-xít Đức. Sau đó, số mệnh những người gốc Do Thái đáng thương này ra sao thì cả thế giới đã biết. Trong thời gian chiếm đóng nước Pháp của Phát-xít Đức, có gần 100 ngàn người gốc Do Thái bị lùa vào các trại diệt chủng. Cảnh sát Pháp hưởng hoàn toàn “công trạng” này.
Tệ hơn nữa, mật vụ Pháp cũng cần mẫn không kém trong việc lùng bắt quân kháng chiến Pháp. Họ ra tay tra tấn, khảo hạch các partisan (tên gọi các thành viên lực lượng kháng chiến Pháp chống xâm lược Đức) để tìm ra manh mối các ổ kháng cự để lập công với Phát-xít Đức. Có thể nói không ngoa là tại Pháp, lực lượng cảnh sát và mật vụ Pháp đã thay mặt Phát-xít Đức để làm công việc bình định và duy trì sự chiếm đóng của Đức Quốc Xã trên đất Pháp.
Cũng vì thế mà sau ngày giải phóng nước Pháp, chính người dân Pháp vì quá phẫn nộ đã ra tay trả thù thành phần collaborators này. Có gần 10 ngàn collaborators bị thủ tiêu trước khi chính phủ lâm thời của tướng De Gaulle ra lệnh chấm dứt tình trạng trả thù ngoài vòng pháp luật này.

Cho đến nay, đối với người Pháp nhắc đến chữ "collaborator" vẫn đánh thức một mối nhức nhối ở cấp quốc gia. Với truyền thống cách mạng và nền văn minh mà người Pháp luôn tự hào, lại sản sinh một thành phần "collaborator" với giặc như thế là một điều vô cùng nhục nhã.
Nhiều sử gia đánh giá rằng sự hợp tác thành khẩn của thành phần collaborators tại Pháp là một sự việc chưa từng thấy trong lịch sử....
... cho đến 70 năm sau có lẽ người ta mới thấy lại một tình trạng collaboration như thế tại Á châu.
Trước sự trỗi dậy của Trung Quốc với tham vọng bành trướng tại Á châu, các quốc gia lân cận từ Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan xuống đến Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a, Singapore, Mã Lai, Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam đều phải e dè.
Chính sách, thái độ, và phản ứng của mỗi quốc gia cũng có khác biệt nhau về mức độ. Nhưng không đâu bằng phản ứng của nhà nước Việt Nam. Đối với sự xâm lấn biển đảo thuộc chủ quyền Việt Nam, đối với sự hiếp đáp ngư dân Việt Nam của hải quân Trung Quốc, nhà nước Việt Nam không có phản ứng cứng cỏi của một chính quyền độc lập như các quốc gia lân cận, mà ngược lại có thái độ nhu nhược và phản bội dân tộc của một chính phủ bù nhìn như chính phủ Vichy dưới thời chiếm đóng của Phát-xít Đức.
Tại Hồng Kông, nay đã thuộc chủ quyền của Trung Quốc, nhưng mỗi năm đến ngày kỷ niệm vụ thảm sát Thiên-An-Môn, dân chúng lại kéo xuống đường rất đông. Giới cầm quyền và cảnh sát Hồng Kông vẫn để yên cho dân biểu tình và chỉ đóng vai giữ trật tự. Trong khi đó tại Việt Nam, một quốc gia độc lập, những người biểu tình yêu nước chỉ muốn tuyên xưng chủ quyền đất nước cho Hoàng Sa, Trường Sa lại bị chính công an Việt Nam đàn áp thẳng tay ngay trên đường phố.
Sự tận tụy, cần mẫn của lực lượng công an, mật vụ Việt Nam ngày nay trong việc đàn áp những người yêu nước chống bá quyền Trung Quốc chắc hẳn vượt quá sự mong đợi của chính các lãnh đạo Bắc Kinh. Với đà nhu nhược và phản bội này của nhà cầm quyền Việt Nam — mà nhiều người gói gọn trong 6 chữ Hèn với giặc Ác với dân — để bóp nghẹt lòng yêu nước của dân tộc, thì khi đất nước rơi hoàn toàn vào tay bá quyền Trung Quốc, quân xâm lược Bắc Kinh đã có sẵn một thành phần cung cúc, tận tụy với chủ mới; đó chính là lực lượng công an, mật vụ Duỵn-Nàn (Việt Nam), hãnh diện đóng vai ngôi sao thứ sáu trên màu cờ đỏ rực của đế chế Trung Quốc.
Sử gia gọi thành phần hợp tác với Phát-xít Đức 70 năm về trước là Nazi collaborators. Ngày nay tên gọi thành phần collaborators với Trung Quốc ngay trên đất Việt là gì? Kính nhờ bạn đọc đặt tên tiếng Việt dùm thay cho tác giả.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.