Hôm nay,  

Những Biện Pháp Kích Cầu

08/03/201200:00:00(Xem: 11063)
...từ biện pháp kích cầu nhất thời người ta lại có thể gây hậu quả suy trầm, hay suy thoái!

Trong vụ tổng suy trầm vừa qua của kinh tế thế giới, các quốc gia đều cố gắng áp dụng một số biện pháp kích thích thuộc loại kinh điển, như hạ lãi suất, bơm tín dụng, giảm thuế hay tăng chi ngân sách. Bốn năm sau, hình như những biện pháp trên vẫn chưa đạt kết quả, ngay cả với trường hợp Trung Quốc là một xứ đã tăng chi và bơm tín dụng tới mức kỷ lục lên đến 40% Tổng sản lượng. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu sự kiện đó qua phần trao đổi cùng nhà tư vấn kinh tế của đài Á châu tự do là chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa.
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, đầu năm 2008, khi kinh tế Hoa Kỳ trước tiên suy trầm và một số ngân hàng đầu tư bị chấn động, Chính quyền Mỹ dưới thời Tổng thống George W. Bush cùng Ngân hàng Trung ương đã lập tức ban hành biện pháp kích thích kinh tế. Rồi khi suy trầm lan rộng trong mấy năm kế tiếp và trở thành nạn Tổng suy trầm toàn cầu, các quốc gia khác cũng ứng phó bằng nhiều phương thức được coi là kinh điển. Nhưng cho đến nay thì tình hình chung có vẻ như chưa sáng sủa mà nhiều xứ còn gặp vấn đề khác nên người ta tranh luận khá nhiều về sự hữu hiệu của các biện pháp này. Tiết mục chuyên đề của chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu về hiện tượng đó, ông nghĩ thế nào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng với chiều dầy thời gian là bốn năm, chúng ta có thể và cũng nên nhìn lại để tìm hiểu vì sao mà nhiều biện pháp kinh tế lại không đạt kết quả như dự tính. Đã vậy, dường như là ta còn gặp hiện tượng gọi là "hậu quả bất lường" là khi áp dụng giải pháp này thì lại gây vấn đề bất ngờ khác mà trước đó người ta chưa thấy ra.
Vũ Hoàng: Như vậy, trước hết xin đề nghị ông trình bày cho một danh mục của các biện pháp ứng phó rồi mình mới tìm hiểu về sự hữu hiệu của các biện pháp này.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trước hết, tôi trộm nghĩ là ta hãy nói về định nghĩa để xác định bối cảnh và nội dung vấn đề. Người ta nghiệm thấy là trong sinh hoạt kinh tế, sự thăng trầm của sản xuất có thể là hiện tượng chu kỳ, tức là sá bảy năm lại xảy ra một lần. Khi sản lượng giảm liền trong hai quý, với đà tăng trưởng chậm hơn, thì ta có nạn "suy trầm", hay recession, mà tôi cho rằng người ta gọi sai là "suy thoái", hay depression. Xin tạm nhớ rằng trầm là chìm mà thoái là lùi. Suy trầm là tăng trưởng chậm lại, suy thoái là không tăng trưởng dù thấp hơn mà còn thụt lùi. Nếu suy trầm kéo dài và lan rộng ra nhiều khu vực kinh tế thì mới có nạn suy thoái và nếu suy thoái lây lan qua mọi sinh hoạt lẫn các quốc gia khác thì ta có nạn khủng hoảng hay crisis. Việc gọi tên như vậy cũng có tầm quan trọng vì nó chi phối nhận thức và phản ứng của chúng ta.
Vũ Hoàng: Ông vừa nói đến một hiện tượng gọi là chu kỳ là cứ lâu lâu lại xảy ra một lần. Nguyên nhân là vì sao vậy?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Về nguyên nhân thì người ta phân biệt hai trường hợp. Một là "nội sinh", hai là "ngoại nhập". Nội sinh là tự xảy ra trong nền kinh tế vì cái trớn của sản xuất và tiêu thụ. Ngoại nhập là khi có yếu tố tác động từ ngoài vào, thí dụ như chiến tranh, thiên tai động đất hoặc giá cả nhập lượng như xăng dầu hay nông sản bất ngờ gia tăng trên thế giới và gieo họa cho nền kinh tế quốc dân ở bên trong.
- Một cách phổ biến thì khi kinh tế bị suy trầm, người ta thường cho rằng đó là vì tổng số cầu trên thị trường sút giảm sau giai đoạn tăng trưởng mạnh nên nhất thời hàng họ bị ế ẩm, tồn kho bị đọng, nhịp độ sản xuất chậm lại và thất nghiệp tăng. Gặp trường hợp đó, ta có loại biện pháp gọi là "phản chu kỳ", là chủ động đảo ngược chu kỳ đình đọng. Cụ thể là kích thích số cầu, hay "kích cầu", nhằm nâng mức sản xuất, giảm đà thất nghiệp hoặc bơm lợi tức cho dân chúng thêm cơ hội tiêu xài. Chuỗi biện pháp ấy gồm có hạ lãi suất để vay tiền rẻ hơn, bơm tín dụng là cho vay để tiền tệ lưu thông dễ dàng hơn, giảm thuế để hạ bớt chi phí sản xuất và cho dân thêm tiền xài, hoặc tăng chi để tạo thêm nguồn tiền cho tiêu thụ và sản xuất, v.v... Tùy hoàn cảnh của từng loại suy trầm lẫn chủ trương của lãnh đạo kinh tế từng nước mà người ta thiên về giải pháp tiền tệ như lãi suất và tín dụng hoặc giải pháp ngân sách là tăng chi hay giảm thuế.
Vũ Hoàng: Bây giờ, ta nói đến kết quả. Thưa ông, trong giai đoạn Tổng suy trầm vừa qua, một số quốc gia đã áp dụng biện pháp tiền tệ rất mạnh qua việc ào ạt bơm thêm tín dụng và quả nhiên là tình hình sản xuất dù có giảm sút chút đỉnh so với trước đây hoặc so với nước khác. Đó là trường hợp của Trung Quốc và Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng dù sao vẫn khá cao trong các nền kinh tế gọi là đang phát triển.
Nhưng ngược lại, cũng biện pháp đó lại gây ra lạm phát hoặc thậm chí bong bóng đầu tư. Kết cuộc thì người ta phải tăng lãi suất hoặc nâng mức dự trữ pháp định của các ngân hàng để hút bớt lượng tiền lưu hành trong kinh tế hầu đẩy lui lạm phát. Ta còn nhớ rằng đã có lúc lãi suất tại Việt Nam lên tới 18-20% khiến doanh nghiệp khó đi vay và không khí làm ăn trở thành ảm đạm giữa cơn Tổng suy trầm. Vì sao người ta lại gặp trường hợp lạ kỳ đó?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ta có hiện tượng gọi là hậu quả bất lường hoặc lượng không là phẩm.
- Khi hai xứ này liên tục bơm tín dụng quá mạnh, bình quân là tăng từ 30 đến 40% một năm, thì kinh tế không hút nổi lượng tiền quá lớn đó và gây lạm phát. Thứ hai, hệ thống ngân hàng non yếu khiến cho nhiều nơi dư tiền và xài không đúng mục tiêu kích thích sản xuất mà đẩy tiền qua đầu cơ. Y như một mạng lưới các ống dẫn nước trong việc tiêu tưới vào mùa hạn hán, hệ thống dẫn nước này khiến nhiều nơi bị úng thủy trong khi các khu vực khác vẫn bị hạn hán, doanh nghiệp vẫn không tìm ra tiền để sản xuất.
Vũ Hoàng: Ngoài biện pháp tiền tệ về tín dụng với hậu quả bất lường như vừa nói, các nước cũng áp dụng biện pháp ngân sách, ví dụ như tăng chi. Vẫn về trường hợp kinh tế Trung Quốc và Việt Nam, dường như biện pháp tăng chi này có gây ra bội chi ngân sách và thật ra đã trở thành những khoản đầu tư rất tốn kém nếu so sánh với kết quả. Vì sao lại có chuyện như vậy?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta trở lại câu chuyện về phẩm chất của cơ chế kinh tế và hiệu năng của chính sách vĩ mô.
- Từ Tháng 11 năm 2008, Trung Quốc tăng chi ngân sách qua ngạch số tương đương với gần 600 tỷ đô la và bơm thêm một lượng tín dụng chừng 1.400 tỷ, tổng cộng là gần 2.000 tỷ đô la cho một nền kinh tế một năm chỉ sản xuất có khoảng 5.000 tỷ. Đây là ta chưa nói đến một lượng tiền rất lớn mà chưa ai tính ra nổi, kể cả lãnh đạo ở trung ương, là số tiền các chính quyền địa phương đi vay của các ngân hàng nhà nước ở địa phương để thi đua kích cầu.

- Rốt cuộc thì họ đẩy ra một lượng rất lớn mà lại không biến ra phẩm vì những yếu kém lệch lạc trong cơ chế sản xuất. Yếu tố cần chú ý ở đây là "hiệu suất đầu tư", nôm na là phải đầu tư mấy đồng thì tăng sản lượng được một đồng. Khi mới cải cách, mấy chục năm trước, xứ này đầu tư chừng hai đồng thì nâng được một đồng sản lượng. Trong bốn năm qua, họ phải đầu tư bảy tám đồng thì mới có thêm một đồng sản lượng, nghĩa là bị phao phí sức lực để đạt kết quả nghèo nàn, chưa nói dến những hậu quả bất lường mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều sẽ gặp sau này.
Vũ Hoàng: Nói lại cho dễ hiểu thì áp dụng một chính sách vĩ mô tưởng là thích hợp nhưng cho một cơ chế kinh tế tài chính yếu kém thì dù có kết quả, kết quả ấy vẫn là nghèo nàn và còn gây ra hậu quả mà ông gọi là bất lường. Thưa ông, những hậu quả ấy là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng quan trọng và nguy ngập hơn cả thì có hai vấn đề sau này sẽ gieo họa cho kinh tế.
- Thứ nhất là về xuất xứ của nguồn tiền vì mọi đồng bạc đều có hai mặt. Ngay trong phạm trù gọi là tăng chi quá nguồn thu của ngân sách, tức là gây bội chi hoặc thiếu hụt ngân sách, người ta thực tế phải đi vay. Ví dụ như khi số thu ngân sách chỉ có trăm đồng mà muốn xài một trăm hai thì phải vay tiền hay in thêm hai chục bạc. Mà đã vay thì sẽ có ngày phải trả, dưới dạng này hay dạng khác. Cái dạng phổ biến nhất chính là lạm phát, một sắc thuế mù quáng đồng hạng đánh vào túi tiền của mọi người và người nghèo hay thành phần có đồng lương cố định là bị thiệt nhất.
- Một dạng khác là lãi suất hay tiền lãi. Chính quyền mà tăng chi quá nguồn thu thì phải đi vay, thí dụ như phát hành trái phiếu, và phải trả tiền lời, tức là lại nâng thêm một khoản chi khác. Khi đi vay như vậy thì người ta thu hút một số tài nguyên trên thị trường làm cho thị trường có ít tiền hơn và lãi suất vì vậy cũng sẽ tăng, nghĩa là dẫn tới kết quả ngược với mục tiêu kích cầu.
- Thứ hai, khi vay tiền như mua nước để bơm vào chỗ bị úng thủy, là trường hợp điển hình của Trung Quốc, người ta gây ra hiện tượng sản xuất thừa trong một số khu vực. Chuyện kinh hoàng của Trung Quốc là xứ này đã vì biện pháp kích thích kinh tế mà sản xuất quá nhu cầu trong các lĩnh vực như sắt, thép, kim loại, xi măng, hoá chất, lọc dầu, v.v... Vì kích thước quá lớn của kinh tế xứ này, lượng hàng hóa dư thừa đó lên tới con số khổng lồ, thí dụ như khối thép ế của họ nay đã cao bằng sản lượng thép của cả Liên hiệp Âu châu. Nếu phải xả lượng tồn kho ế ẩm này ra ngoài để cứu các doanh nghiệp nhà nước khỏi phá sản thì Trung Quốc sẽ gieo họa cho thế giới. Cho nên, từ biện pháp kích cầu nhất thời người ta lại có thể gây hậu quả suy trầm, hay suy thoái!
Vũ Hoàng: Thưa ông, chúng ta thấy ra trái đất hình tròn khi cách ứng phó của xứ này có thể gây hậu quả bất lường ở bên trong mà cũng còn tác động vào tình hình kinh tế của xứ khác ở bên ngoài. Có lẽ vì vậy mà người ta không chỉ quan tâm đến việc ứng phó của từng nước mà còn phải nhìn vào hậu quả chung cho các xức khác.
Trở lại chuyện Hoa Kỳ, thưa ông, vì sao qua hai kế hoạch kích cầu của hai chính quyền nối tiếp, trị giá 150 tỷ rồi gần 800 tỷ đô la, và qua các biện pháp như Ngân hàng Trung ương hạ lãi suất tới số không và hai lần in bạc bơm tiền, mà tình hình chưa khả quan? Trong khi ấy, người Mỹ vẫn ráo riết tranh luận về giải pháp khiến nhiều người hoài nghi khả năng ứng phó của Hoa Kỳ và như ông có nói trên diễn đàn này là Mỹ cũng bị khủng hoảng về niềm tin?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Với có đủ thời gian để nhìn lại, tôi cho rằng Hoa Kỳ không chỉ bị suy trầm theo chu kỳ thông thường mà thật ra nạn suy trầm mở bung các nhược điểm tích lũy từ lâu là đã tiêu thụ và vay tiền quá khả năng nên đến lúc phải trả nợ. Khi vừa trả nợ, tức là phải thu vén chi tiêu, mà cũng phải kích thích kinh tế thì người ta gặp mâu thuẫn về mục tiêu và mâu thuẫn đó mới gây ra tranh luận về các giải pháp. Cũng xin nói thêm rằng đây là loại vấn đề vài ba thế hệ hay sáu bảy chục năm mới gặp một lần mà nếu thiếu trí nhớ thì ai cũng có thể tưởng là chưa hề có bao giờ nên rất dễ tuyệt vọng, hoặc mất niềm tin.
- Sau cùng, cái nạn vay mượn quá sức này không là một đặc thù của Mỹ mà còn là hiện tượng chung của các nền kinh tế đã tiến lên trình độ hậu công nghiệp, là trường hợp của Nhật Bản, Âu Châu và Hoa Kỳ. Nhiều xứ khác dù chưa lên tới đó thì cũng đã gặp tình trạng nợ nần quá sức này, kể cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, nên ta càng phải chú ý về chuyện đó.
Vũ Hoàng: Vì thời lượng có hạn của chương trình chúng ta, xin ông tóm lược về nội dung tranh luận hiện nay. Cụ thể là Hoa Kỳ nên nhắm vào những giải pháp nào cho vấn đề suy trầm ngắn hạn và bài toán nợ nần lưu cữu từ đã lâu?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng ngần ấy vấn đề đều có thể quy vào một giải pháp là phải đạt tăng trưởng cao hơn để giảm thất nghiệp, nâng lợi tức lẫn nguồn thu thuế khoá và đẩy lui bội chi. Người ta sở dĩ tranh luận vì tùy quan điểm lập trường mà chú trọng đến yếu tố này hơn yếu tố kia, thí dụ như phải tăng thuế để giảm bội chi và giảm thuế để kích thích sản xuất. Trong khi họ cũng không thể quên khối dân nghèo trong cộng đồng quốc gia mà yêu cầu cứu trợ có thể lại gây thêm bội chi. Bản thân tôi và ý thức được sự hạn hẹp tất yếu, tôi cho rằng Hoa Kỳ phải một lúc nhằm vào ngần ấy mục tiêu và chọn lựa trong thùng đồ nghề chữa chạy của mình những khí cụ nào có thể đáp ứng được nhiều kết quả nhất.
- Một cách cụ thể thì Hoa Kỳ chưa thể giảm chi ngay nhưng phải điều hướng việc công chi tới cả ngàn tỷ đô la một năm vào sản xuất hay cải thiện hạ tầng cơ sở đã bị lão hóa hơn là tái phân lợi tức để cứu người nghèo mà những người có khả năng đầu tư sản xuất lại bị trở ngại. Đó là một khía cạnh của vụ tranh luận về giàu nghèo, về công bằng xã hội hay phát triển kinh tế.
- Việc thứ hai và tôi sẽ lại nói ngược: Hoa Kỳ phải cải tổ hệ thống thuế vụ để tránh mất thuế và khai báo quá rắc rối nhưng sửa đổi chế độ thuế khoá theo hai hướng là tăng thuế tiêu thụ để tiết giảm việc tiêu xài và vay mượn nhưng giảm thuế đầu tư sản xuất để kích thích số cung hơn là chỉ nhắm vào số cầu như hiện nay. Tất nhiên là khi tăng thuế tiêu thụ thì vẫn phải có biện pháp miễn giảm cho đa số người nghèo. Câu chuyện này khá phức tạp chứ không dễ nhưng tôi tin rằng thể nào dân Mỹ cũng có lúc phải lấy những quyết định cần thiết cho tương lai xứ này.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc phỏng vấn này.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
Nhiều thế hệ sống ở Sài Gòn những năm của thập niên 80-90, khi con gà trống của Thương Xá Tax chưa bị bức tử, khi những hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng vẫn là nét thơ mộng của Sài Gòn, có lẽ đều quen thuộc với câu “Chương Trình Truyền Hình Đến Đây Là Hết…” Nó thường xuất hiện vào cuối các chương trình tivi tối, khi chưa phát sóng 24/24. Thời đó, mỗi ngày truyền hình chỉ phát sóng trong một số khung giờ nhất định (thường từ chiều đến khuya) nên hầu như ai cũng có tâm lý chờ đợi đến giờ ngồi trước màn ảnh nhỏ, theo dõi vài giờ giải trí. Đó cũng là chút thời gian quên đi một ngày cơ cực, bán mồ hôi cho một bữa cơm độn bo bo thời bao cấp. Nhắc nhớ chút chuyện xưa, để nói chuyện nay, đang diễn ra ở một đất nước văn minh hàng đầu, từng là niềm mơ ước của biết bao quốc gia về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trên mạng gần đây lan truyền một bức tranh chuỗi tiến hóa ngược nhại kiểu Banksy - vẽ hình ảnh tiến hóa quen thuộc từ khỉ tiến tới người, nhưng đến giữa chặng đường, một gương mặt ai cũng nhận ra quay lưng đi ngược lại về phía khỉ. Cái dáng ngoảnh đầu ấy khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến hình ảnh nước Mỹ hôm nay. Giữa thế kỷ XXI, lẽ ra phải tiếp tục đi tới, nhưng thay vì mở rộng tự do học thuật – ngọn nguồn của sáng tạo – chúng ta lại thấy những dấu hiệu nước Mỹ thoái lui theo một quỹ đạo lạ lùng: thử nghiệm một kiểu “tiến hóa ngược”.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện lật đổ Roe v. Wade, chúng ta đều biết câu chuyện không dừng lại ở đó. “Để tiểu bang tự quyết” chỉ là cái cớ. Và Texas, tiểu bang bảo thủ dẫn đầu, vừa chứng minh điều đó bằng một luật mới: trao cho bất kỳ ai quyền săn lùng và kiện những người dính dáng tới thuốc phá thai. Texas vốn đã có một trong những lệnh cấm khắc nghiệt nhất: phá thai bị cấm hoàn toàn, trừ vài ca y tế khẩn cấp. Không ngoại lệ cho thai dị tật chết non. Không ngoại lệ cho hiếp dâm. Không ngoại lệ cho loạn luân. Thế nên, nhiều phụ nữ Texas chỉ còn con đường tìm đến thuốc phá thai qua mạng, thường từ những nhà cung cấp ở ngoài tiểu bang. Luật mới nhắm thẳng vào cánh cửa mong manh ấy.
Suốt 250 năm, người Mỹ đồng ý rằng cai trị bởi một người duy nhất là sai lầm, rằng chính quyền liên bang vốn cồng kềnh, kém hiệu quả. Lẽ ra hai điều ấy đủ để ngăn một cá nhân cai trị bằng mệnh lệnh từ Bạch Ốc. Nhưng Trump đang làm đúng điều đó: đưa quân vào thành phố, áp thuế quan, can thiệp vào ngân hàng trung ương, chen vào quyền sở hữu công ty, gieo nỗi sợ để buộc dân chúng cúi đầu. Quyền lực bao trùm, nhưng không được lòng dân. Tỉ lệ chấp thuận của ông âm 14 điểm, chỉ nhỉnh hơn chút so với Joe Biden sau cuộc tranh luận thảm hại năm ngoái. Khi ấy chẳng ai lo ông Biden “quá mạnh”. Vậy tại sao Trump, dù bị đa số phản đối, vẫn dễ dàng thắng thế?
Có bao giờ bạn nói một điều rõ ràng như ban ngày, rồi nghe người khác nhắc lại với nghĩa hoàn toàn khác? Bạn viết xuống một hàng chữ, tin rằng ý mình còn nguyên, thế mà khi quay lại, nó biến thành điều bạn chưa từng nghĩ đến – kiểu như soi gương mà thấy bóng mình méo mó, không phải bị hiểu lầm, mà bị người ta cố ý dựng chuyện. Chữ nghĩa, rơi vào tay kẻ cố ý xuyên tạc, chẳng khác gì tấm gương vỡ. Mỗi mảnh gương phản chiếu một phần, nhưng người ta vẫn đem mảnh vỡ đó làm bằng chứng cho toàn bộ bức tranh. Một câu, một đoạn, một khẩu hiệu – xé khỏi bối cảnh trở nên lệch lạc – hóa thành thứ vũ khí đâm ngược lại chính ý nghĩa ban đầu. Câu chuyện của đạo diễn Trấn Thành gần đây là một minh họa. Anh chỉ viết đôi dòng thương tiếc chia buồn với sự ra đi của nghệ sĩ đàn bầu Phạm Đức Thành. Vậy thôi. Thế mà lập tức bị chụp mũ, bêu riếu, bị gọi “3 que,” “khát nước,” “Cali con.” Người ta diễn giải đủ kiểu, vẽ ra đủ cáo buộc: từ tội mê văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đến tội phản quốc.
Sau thất bại trước đối thủ đảng Dân Chủ Joe Biden trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, nội các “gia đình trị” của Donald Trump gần như biến mất khỏi chính trường. Các đồng minh không thể có cùng tiếng nói với Trump, nhất là sau vụ bạo loạn Quốc Hội Jan 06. Duy nhất một người vẫn một lòng trung thành không bỏ rơi Trump, đó chính là Stephen Miller. Nhiệm kỳ hai của Trump, người được cho là có quyền lực hơn trong vòng tròn thân cận của Trump, hơn cả JD Vance, chẳng ai khác hơn chính là Stephen Miller. Để tạo ra những ảnh hưởng chính trong chính quyền Trump hôm nay, Miller đã có một đường dài chuẩn bị, khôn ngoan và nhẫn nại.
Đầu tháng 8 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã ký một mệnh lệnh đặc biệt, chỉ đạo các cơ quan hữu trách lập kế hoạch đưa quân đội Hoa Kỳ đi trấn áp các tổ chức tội phạm ở Mỹ Latinh. Khoảng hai tuần sau, mệnh lệnh đã thành hiện thực. Ba khu trục hạm có gắn phi đạn viễn khiển (guided-missile destroyers) của Hoa Kỳ đã được khai triển tới vùng biển Venezuela, đảm trách việc chặn giữ các chuyến hàng ma túy.
Một góc khuôn viên của Đồi Capitol sáng Thứ Tư là những câu chuyện tưởng đã bị chôn vùi, nay được kể ra trong sự run rẩy, xúc động và cả nước mắt. Trước hàng chục ống kính truyền thông chiếu trực tiếp trên toàn quốc, khoảng mười người phụ nữ lần lượt kể ra câu chuyện của chính mình – nạn nhân của Jeffrey Epstein, tỷ phú tội phạm tình dục và buôn bán mại dâm trẻ vị thành niên. Ngày đó, những phụ nữ này chỉ vừa 16, 18 tuổi, nhỏ nhất là Marina Lacerda, 14 tuổi.
Ở đời, chẳng có ngai vàng nào là miễn phí. Muốn hỏi cưới công chúa thì phải có sính lễ. Làm gì có chuyện đi tay không mà cuỗm được gái đẹp — trừ trường hợp dùng quyền lực bẩn thỉu cưỡng hiếp gái tơ (nghe quen quen). Muốn làm đàng anh đàng chị không thể vừa keo kiệt vừa đòi được người ta kính nể. Quy luật xưa nay không đổi ăn khế thì phải trả vàng. Ngai vàng toàn cầu cũng vậy -- không chỉ làm bằng vàng, mà còn bằng chi phí, lời hứa, và trên hết, là sự tín nhiệm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.