Hôm nay,  

Ngày Này…

05/05/201200:00:00(Xem: 13965)
Ngày này …

Chưa tới “ngày này”, tức ngày 30/04 – gọi “ngày này” vì người Việt nam không thể quên được – mà đồng bào ở Miền Trung ùn ùn bỏ chạy vào Sài gòn tỵ nạn. Tin tức mất đất dồn dập đưa tới. Có nhiều nguồn tin nói rỏ mất đất nhưng chưa thấy một tên VC lớn, VC con nào tới dành đất, chiếm đất. Tức chính mình bỏ đất, bỏ nhà của mình để chạy trước lánh nạn. Mấy ngày sau, VC mới tới chiếm lấy đất trống, đất bỏ hoang không chủ. Như kẻ cướp vào cái nhà cửa mở sẳn!

Lịch sử mất nước tái diển. Xin nhắc sơ lược để nhớ lại hoàn cảnh VC Hà nội chiếm Miền nam ngày 30/04.

Ai cũng hiểu rõ Hồ Chí Minh không phải là một chánh khách, mà thật sự là một cán bộ cộng sản chỉ điểm của Đệ tam Quốc tế. Đồng thời ông ta cũng là một đảng viên đảng Cộng sản Tàu (Một đảng, đã chịu không nỗi rồi. Đàng này, Bác ôm tới 2 đảng. Bố ai chịu cho nỗi!). Nhờ cộng sản cho biết phải làm gì sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, Hồ Chí Minh liền triệu tập Đại hội đảng cộng sản đông dương ở Tân Trào, Tuyên Quang, tháng 8/1945 để thành lập ngay “Uỷ Ban Khởi Nghĩa Toàn Quốc” và phát động cuộc tổng khởi nghĩa, cướp chánh quyền ở khắp các tỉnh trong nước. Đảng cộng sản đông dương do Hồ Chí Minh lãnh đạo, chỉ có Ban Chấp hành Trung ương khoảng dưới 20 người, Tổng Bí thư là Trường Chinh, và số đảng viên trên toàn quốc dưới 5,000 người. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Seuil, Paris, 1952, p. 182)

Với một lực lượng như vậy, Hồ Chí Minh cướp được Chánh quyền? Và Chánh quyền của Chánh phủ Trần Trọng Kim chớ hoàn toàn không ở người Nhựt hay Pháp.

Xin nhắc lại Chánh phủ Trần Trọng Kim không có Bộ Quốc phòng và không có quân đội nên không có vấn đề đề kháng. Đại sứ Nhật ở Huế là Ông Massayuki Yokoyama đến gặp Hoàng Đế Bảo Đại, đề nghị dùng lực lượng của Nhật tiêu diệt Việt Minh, vì tuy thất trận trên thế giới,quân đội Nhật vẫn còn nguyên vẹn ở Đông Dương, đủ sức đàn áp và giải táng Việt Minh. Lo sợ không khéo có thể nội chiến xảy ra trước sự can thiệp của ngoại bang, Hoàng Đế Bảo Đại từ chối đề nghị giúp đỡ của Ông Yokoyama. Người Nhật còn đề nghị với Thủ tướng Trần Trọng Kim. Cụ Kim nhắc lại: “Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo tôi (tức cụ Trấn Trọng Kim) Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng minh đến thay. Nếu Chánh phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật còn có thể giữ trật tự.

Tôi nghĩ quân Nhật đã đầu hàng, quân Đồng minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật đánh người mình còn nghĩa lý gì nữa, và lại mang tiếng cõng rắn cắn gà nhà. Tôi từ chối không nhận.” (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi).

Lúc đó, quân đội Nhật trên toàn Đông Dương bất động vì đã được lệnh hạ khí giới và đầu hàng. Quân Pháp bị quân Nhật bắt cầm tù từ lúc đảo chánh. Nhờ nhà vua và Chánh phủ hết lòng muốn tránh đổ máu đồng bào vô ích và mọi phản kháng võ lực không có mà cộng sản Việt Minh mới tự do “cướp” Chánh quyền! Cách “chiến thắng” này được lập lại “ngày này”, 37 năm trước một lần nữa!

Phải chăng số phận đất nước đã an bài để dân tộc ta trả cho hết cái nghiệp kiếp trước và VC hà nội tiến lên cho hết cái tiến trình xã hội chủ nghĩa?
Sài gòn, đường Yên Đỗ

Lúc bấy giờ, chúng tôi cư ngụ đường Yên Đỗ, Quận 3, Sài gòn. Nhà chật, gia đình đông người với 2 cháu sinh viên, con của bạn ở Nha Trang vào ở trọ đi học. Gia đình của Thiếu tá Cảnh sát Đặc biệt ở Nha Trang khá đông người tới xin tỵ nạn vì các con lớn của ông là bạn học của 2 sinh viên đang ở với chúng tôi. Mọi người đành phải ngủ lăn ra đất vì không còn đủ chổ. Cái ăn hằng ngày quan trọng hơn chổ ngủ nhưng còn cầm cự được.

Ngày 29 tháng 4, ai cũng thấy Sài gòn chắc tiêu vong. Chúng tôi có điều kiện để di tản khỏi Việt nam bằng tàu thủy vì có người thân làm thuyền trưởng một chiếc tàu nhỏ chở đồ đạc, sự nghiệp vật chất, của một gia đình nhơn viên trong Chánh phủ, đem ra ngoại quốc vì người đã đi khỏi Sài gòn rồi bằng máy bay. Thủy thủ đoàn được quyền đưa gia đình đi. Nhưng trong tình cảnh như vậy, với trách nhiệm 2 sinh viên con cháu của bạn mà phụ huynh của chúng nó chưa biết ra sao ở Nha Trang, chúng tôi không thể bỏ ra đi được. Chúng nó cũng không thể đi với chúng tôi.Trong lúc trông ngóng tin tức thì Sài gòn mất.

Bạn bè của 2 cháu là sinh viên sĩ quan Thủ đức, Đa-lạt, Hải quân, sáng ngày 30/04, mang súng ống, mỗi người hai ba cây, nào M79, nào M16, … ghé qua chúng tôi để gặp bạn và hỏi thăm tin nhà. Vài phút sau, các cậu vội lột hia mão, súng ống đem bỏ trên lề đường cách xa nhà. Mặt mày vô cùng thảm nảo. Chưa thành sĩ quan. Chưa đánh mà đã thua rồi. Không buồn sao được!

Tội nghiệp nhứt là ông Thiếu tá Cảnh sát Đặc biệt. Ở Nha Trang, ông được VC treo giải thưởng cho cái đầu của ông là 1, 5 triệu đồng bạc Vn. Vì ông bắt được nhiều VC lẻn vào Thị xã hoạt động nên cơ sở của chúng bị phá vỡ liên tục.

Vài ngày sau, khi có xe đò, ông và gia đình đi về Nha Trang. Ông chấp nhận số phận của ông với hi vọng gia đình của ông không liên lụy bị hại. Không có cái đau khổ nào bằng cái đau khổ của ông Thiếu tá Cảnh sát Đặc biệt khi quyết định đi về nguyên quán trong tình hình VC vừa chiếm được vùng đất địch.


Thời gian khá dài sau đó, chúng tôi nghe tin ông và các con lớn của ông phải lên rừng đốn củi, đốt than sanh sống qua ngày. Bỡi theo phép tắc cách mạng, ông và gia đình không được quyền sống ở thành phố, không được quyền làm việc như những người khác. Ông không phải là một đơn vị của tập thể nhơn dân dưới chế độ mới. Hiểu hoàn cảnh của ông, nhớ lại gương mặt của ông, của mọi người trong gia đình của ông lúc chuẩn bị về quê, ngày nay, tức ngày này của 37 năm sau, chúng tôi không khỏi rơi nước mắt.

“…Chim Quyên xuống đất ăn trùng,
Anh hùng lở vận lên rừng đốt than … ( Sơn Nam )

Mà ông anh hùng thiệt! Anh hùng trong cách sử sự của ông đối phó với hoàn cảnh bi đác lúc đó. Ông có thể chạy trốn được nhưng chỉ một mình ông. Còn vợ con của ông? Sự chấp nhận cái chết một cách sáng suốt, bình tỉnh, biểu hiện được giá trị con người.

Trong gần đây, cách nay năm ba năm, chúng tôi được tin ông và gia đình định cư ở Huê kỳ, tiểu bang California nhưng chưa có dịp liên lạc với ông.
Nam Bộ kháng chiến, Mặt Trận GPMN, Tập kết.

Khu phố chúng tôi ở nằm phía sau building Mỹ, nhiều biệt thự ngoại quốc và Mỹ ở trước đây. Sau ngày này, Cục Xây Dựng II tiếp quản tất cả nha cửa ở đây đẻ cho nhơn viên vừa ở vừa làm Văn phòng quản lý các cơ sở sản xuất và buôn bán vật liệu xây cất của Quận Ba. Bên cạnh chúng tôi là ông Tổ trưởng Tổ Dân phố. Cán bộ và gia đình Cục Xây dựng thuộc Tổ Dân phố quản lý và phân phối một số nhu yếu phẩm. Nhưng chỉ một phần vì phần còn lại thuộc cơ quan của họ. Về khai báo, cán bộ cấp Trung cao khai ở cơ quan.

Cán bộ Cục Xây dựng ở đây đều là dân Nam kỳ tập kết trở về. Phần lớn, trước khi đi ra Bắc, họ có học tới vài năm Trung học hoặc ít lắm cũng qua Cấp Sơ học yếu lược. Tất cả đều có vợ Bắc kỳ. Hỏi sao ông nào về đây cũng có vợ Bắc kỳ hết vậy? Các ông cười trả lời: “Sau năm 1956, thấy không có Hiệp thương, tụi tui muốn làm loạn, đòi về Nam. Chánh quyền giải quyết bằng cách đưa chúng tôi đi du học. Phần lớn theo các nghành xây dựng, quản lý, kỹ thuật,... Trở về Hà nội, anh em đều được bố trí công tác. Đời sống tạm ổn định. Hết hi vọng chờ đợi nên ông nào cũng quơ đại một bà Bắc kỳ mà sống qua ngày”. Nhiều người về gặp lại bà vợ Nam kỳ. Ngày đi tập kết, họ hẹn nhau 2 năm, nhưng các bà đã chờ đợi chồng suốt hai mươi năm. Trọng cái tình nghĩa cao quí của vợ củ nhưng họ không biết đem bỏ bà vợ Bắc kỳ ở đâu cho yên. Thật tội nghiệp. Ở với cả hai, đảng không chịu vì Bác Hồ còn không có một bà nào hết kia mà!

Khi ra đi sau Hiệp định Genève,họ hẹn nhau hai năm, sau hai mươi năm gặp lại nhau, vẫn còn hơn dân Miền nam, sau ngày “giải phóng”, hẹn với vợ con chỉ có mười ngày hoặc một tháng, mà hơn mười lăm năm sau mới về gặp lại gia đình trong cảnh tan nát! Có đau thương hơn không?

Chúng tôi quen anh Tư Thể, Giám đốc Công Ty Vật liệu xây dựng thuộc Cục Xây Dựng II. Thời gian qua, chúng tôi hiểu nhau và trở thành thân nhau hơn. Cán bộ ở đây cho rằng chúng tôi, tức bà con ở đây, thuộc thành phần nhơn dân tiến bộ.

Một hôm, anh Tư Thể ngồi uống trà, bổng sụt sùi khóc, nói nhỏ như muốn giải bày nổi lòng:

- Một buổi tối, dừng chơn lại trên đường về để xây cất cơ sở cho Chánh phủ Lâm thời, tôi nghe tin Sài gòn mất. Tôi lặng người như chết thật sự. Tôi tới nhà dân gần đó, xin vài cây nhang. Tìm chổ vắng, tôi thấp lên và hướng về quê hương tạ tội: tôi về đây, tôi theo đảng hay lo cho cha mẹ, anh em, bà con Miền nam? Tôi đã khóc ngất. Tôi biết tôi nghĩ tới gia đình, bà con, thì đảng sẽ khai trừ tôi. Tánh mạng của tôi chưa chắc được yên. Tôi theo đảng thì cha mẹ tôi, bà con sẽ không thể nhìn mặt tôi nữa. Mà lòng dạ nào tôi phản bội cha mẹ, anh em, bà con Miền nam?

Anh tâm sự thêm:

- Thằng Thiệu, lúc chiến tranh cao điểm, nó còn tới Quảng Trị thăm lính của nó. Còn Bác Hồ chưa bao giờ đi tới với bộ đội. Gần hết quân đội Miền Bắc gởi vào chiến trường Miền nam mà Bác Hồ chưa môt lần vào Miền nam. Thế mà Bác thường nói, “Miền nam trong trái tim tôi”. Tố Hữu còn làm thơ ca ngợi Bác:

“Miền nam mong Bác nỗi mong cha,
Bác nhớ Miền nam, bố nhớ nhà”.

Anh nói thêm một cách quả quyết:

- Để rồi coi. Sẽ không còn Nam bộ kháng chiến. Không còn Mặt Trận GPMN. Không còn Chánh phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền nam gì hết. Chỉ còn một đảng độc nhứt. Tội nghiệp cho bà con Miền nam không hiều cộng sản hà nội nên sẽ khổ.

Nới tới đây như thấy nhẹ người, anh trầm tỉnh căn dặn:

- Bà con nhớ kỹ đừng nói lại những điều tôi nói. Tụi nó cắt cổ tôi mà cũng liên lụy tới bà con nữa nghen.

Chúng tôi vượt biển tới Mã-lai. Hai tháng sau, chúng tôi tới Pháp định cư. Chúng tôi nhận được thư của bà con lối xóm cũ có kể lại chuyện anh Tư Thể một hôm tới thăm. Ông thấy nhà đóng cửa, hỏi lối xóm, được biết gia đình đó đã vượt biển rồi, ông đứng trước nhà ngẩn ngơ:

- Trời ơi! Đời này, tôi còn biết tin ai nữa bây giờ!

Chiếc cặp trên tay ông như muốn rơi khỏi tay.

Không biết anh Tư Thể và các anh Nam kỳ tập kết ra Bắc theo tiếng gọi yêu nước đi làm giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa giờ này ở đâu?

“Hồn ở đâu bây giờ”? *

Nguyễn thị Cỏ May

* Thơ Vũ Đình Liên, Ông Đồ

Ý kiến bạn đọc
05/05/201202:34:46
Khách
Một bài viết hay với những chi tiết đáng ghi nhận.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.