Hôm nay,  

Ngày Trở Về

12/05/201200:00:00(Xem: 14518)
Houston ơi! Sau những ngày xa cách ta lại sắp được trở lại gặp mi.

Mấy ngày nay bài hát “Ngày Trở Về” cứ loáng thoáng trong đầu tôi. Có lẽ vì trong thời gian gần đây tôi đang chuẩn bị cho ngày trở về cùa mình, trở lại thành phố Houston thân thương. Cùng lúc, tôi sẽ có những chuyến đi tới những thành phố khác để làm việc.

Tôi thấy mình hạnh phúc lắm. Tôi có được ngày trở về.

Còn những người Việt xin tị nạn tại Thái Lan thì sao? Họ không có được ngày trở về, họ cũng không dám mơ mộng gì khi nghĩ về điều này.

Có người may mắn vượt thoát khỏi sự truy bức của nhà cầm quyền cộng sản cùng với những người thân nhưng cũng có người vượt thoát một mình hay may mắn hơn với một hai người thân thôi. Có bao người thầm khóc khi nhìn những người đồng cảnh ngộ có cha mẹ, vợ chồng, con cái cùng chia sẻ đắng cay. Có lẽ họ đang ngày đêm thương nhớ người thân của mình nhưng nào dám nghĩ đến một ngày được trở về gặp lại mẹ cha, chồng, vợ và ôm ấp con thơ để thỏa lòng thương nhớ.

Họ không có ngày về nên chỉ biết nhìn về tương lai và mong đợi ngày được đi định cư. Nhưng than ôi! Tương lai lại quá mập mờ. Thời gian đợi chờ, sống lây lất canh cánh trong lòng nỗi lo âu, sợ hãi bị giam cầm bắt bớ nếu bị cảnh sát sở tại tìm gặp. Trong tận cùng khổ ải đó, may mắn cho họ được đùm bọc chở che bởi những tấm lòng nghĩa hiệp của quý vị ân nhân. Quý vị tu sĩ giàu lòng bác ái: quý linh mục, nữ tu, thượng tọa, đại đức và nhiều vị chức sắc tại Houston đã tổ chức những buổi gây quỹ với thành quả vượt xa ngoài lòng mong đợi. Xin nhiều lần cảm tạ quý ân nhân đã âm thầm đóng góp tại nhiều địa điểm khác nhau cũng như quyên góp nhiều lần, nhất là tại Houston, Texas thân yêu của tôi. Tôi còn được nghe là có nhiều vị cao niên đóng góp, đặc biệt tôi còn được nghe là có một vị cao niên không những góp công đứng tại một địa điểm ôm thùng quyên góp thôi mà cuối ngày sau khi kiểm toán, cụ còn match số tiền cụ xin được ngày hôm đó. Tôi ao ước được gặp cụ để tỏ lòng ngưỡng mộ của tôi đến với cụ. Cũng không thể không nhắc đến những ân nhân khác khắp nơi trên thế giới, xin chân thành thay mặt các nạn nhân gởi lời cảm tạ quý vị.

Một lần nữa, xin chân thành thay mặt các nạn nhân cùng khổ ở Thái Lan cảm tạ quý ân nhân, thầy Thích Huyền Việt, Cha Vũ Thành, Cha Phạm Hữu Tâm, Cha Trần Ngọc Hùng, Cha Nguyễn Mạnh Hùng, Cha Nguyễn Ngọc Thụ, cha Lê Thu, Cha Nguyễn Việt, Cha Đinh Minh Hải, Cha Đỗ Văn Chung, Cha Đinh Minh Tiên, Sơ bề trên Vũ Mai Oánh.

Cũng không quên cảm ơn các nhà truyền thông, báo chí. Nếu không có sự đóng góp, hỗ trợ tích cực của quý vị thì làm sao những lời kêu gọi có thể vang xa đến tai của các vị ân nhân. Xin đặc biệt cảm ơn chú Dương Phục, cô Vũ ThanhThủy của đài phát thanh Sài gòn Radio, cô chú cũng đã nhiều lần lặn lội đi đến tận nơi thăm viếng và ủy lạo các nạn nhân. Nói đến việc thăm viếng và uỷ lạo của quý vị tôi cũng muốn nhắc đến những cuộc thăm viếng và ủy lạo thật là quý hóa của Cha Phạm Hữu Tâm và thầy Thích Huyền Việt, đặc biệt là về vấn đề tâm linh.

Xin cảm ơn các vị chức sắc như bác Quởn, cô Oanh, chú Tinh, chú Vân Đình, và nhiều vị khác đã không quản ngại khó khăn bỏ thời giờ và tâm huyết hết lòng gíúp đỡ trong việc quyên góp hầu trợ giúp cho đồng bào tị nạn tại Thái Lan.

Nghĩ người lại nhớ đến mình, tôi chạnh nhớ về quá khứ của chính gia đình tôi. Đó là thời gian vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 khi cả gia đình tôi, lúc đó có 5 người, cũng là những người tị nạn.

Tôi nhớ mãi sáng hôm đó, ba má tôi phấn khởi đi lên văn phòng Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc để nhận giấy báo kết quả phỏng vấn. Qua hàng rào kẽm, tôi thấy ba má tôi đi ra, gương mặt hai vị thất thần, tái mét. Tôi lấy làm lạ tự hỏi sao ba má tôi lại mất tinh thần như thế này?

Trong lòng chị em chúng tôi luôn tin tưởng vào việc chúng tôi sẽ được chấp nhận quy chế tị nạn vì qua lời ba má tôi thường kể lại những gian truân và sự áp bức, kỳ thị của chính quyền mới đối với gia đình chúng tôi. Thái độ của bá má tôi làm tôi thấy hụt hẫng. Trông thấy tôi đứng chờ đợi, ba má tôi cho biết là gia đình tôi đã bị từ chối quy chế tị nạn. Đó là lần đầu tiên tôi thấy ba má tôi buồn như vậy vì ba tôi luôn là người lạc quan và vô tư còn má tôi là một người kiên cường và tự tin. Sau một kết quả quá shock như vậy đã làm má tôi bị té ngã, trong lúc đang mang thai em Hồng Bích của tôi, má tôi bị xuất huyết nhưng nhờ Ơn Trên che chở nên em tôi được bình yên. Trong thời gian chuẩn bị để nộp đơn xin tái xét, má tôi phải chạy đôn, chạy đáo tới nhà những người thân quen của má để nhờ viết đơn tái xét.

Ba má tôi nói lúc đi phỏng vấn, tự tin là hoàn cảnh và giấy tờ của gia đình chứng minh tình trạng bị áp bức nên khi trả lời phỏng vấn thì quá ỷ lại và không tường thuật rõ ràng sự áp bức, chỉ nói lướt qua sự việc và chỉ chú trọng quá nhiều vào chứng từ. Sự thiếu hiểu biết cộng thêm sự thiếu chuẩn bị của ba má tôi đã phải trả bằng một giá quá đắt (ngay những ngày trước khi đi phỏng má tôi vẫn miệt mài hằng ngày làm việc thiện nguyện tại Trung tâm phụ nữ của Pulau Bidong.Ba má tôi cùng bao nhiêu người đồng cảnh ngộ phải bùi ngùi tự trách mình quá thiếu chuẩn bị). May mắn là nhờ có sự giúp đỡ và cố vấn, đơn kháng cáo của gia đình tôi được chấp nhận và cả gia đình tôi được công nhận quy chế tị nạn.

Ba má tôi khi ở trại tị nạn có buồn tủi, lo âu hay khó khăn gì thì phần nhiều không hề cho chúng tôi biết. Nên ngoại trừ hôm đó, trong 3 năm rưỡi lưu trú tại đất Mã Lai chị em chúng không phải lo âu thiếu thốn gì vì tất cả những người tị nạn được Cao uỷ tị nạn cung cấp đầy đủ về mặt vật chất. Chúng tôi còn may mắn hơn nữa là có sự trợ giúp tài chánh từ ông bà nội và các cô chú của chúng tôi.

Người tị nạn lúc đó có các Cố vấn giúp đỡ, có nhà thờ, chùa chiền và các trung tâm tư vấn, giáo dục, nhà thương, giải trí, thể thao, lên đồi, xuống biển, chợ búa, hàng quán để mua sắm hay ăn uống v.v. Bản thân chị em chúng tôi không có nhu cầu đòi hỏi gì nhiều nên tự thấy mình quá mãn nguyện, vui vẻ học hành và cùng gia đình chờ ngày đi định cư sau khi đơn tái xét được giải quyết.

Bài học khó quên của gia đình tôi là một kinh nghiệm lớn cho chúng tôi và tôi đang dùng nó để làm hành trang mang theo mình trong sứ mạng hiện nay hòng giúp đỡ cho các thân chủ của tôi.

Riêng bản thân tôi, tôi từng sống trong cảm giác đợi chờ (không biết mình là ai chỉ trong thời điểm 4 tháng thôi) chỉ là chờ đợi kết quả cho văn bằng hành nghề luật lúc đó sao thấy dài lê thê. Đối với một người tốt nghiệp luật khoa mà chưa được hành nghề vì còn phải thi lấy bằng (tôi tự hỏi mình có phải là luật sư không?) Tôi ngày đêm mong chờ kết quả và cũng rất lo sợ bị đánh rớt.

So với tâm trạng người tị nạn tại Thái Lan thì 4 tháng chờ đợi kết quả hành nghề thật không đáng kể: Tôi biết rõ ngày có kết quả, cho dù có bị rớt đi chăng nữa tôi vẫn có thể thi lại và không bị ảnh hưởng nhiều đến tương lai. Nếu có thì chỉ có sự đình trệ và chờ đợi thi lại thôi. Còn những gia đình tị nạn thì sao? Trong khi mòn mỏi chờ đợi kết quả sau các cuộc phỏng vấn, họ tự dằn vặt mình vì không hiểu mình trả lời phỏng vấn ra sao mà lâu quá chưa nghe kết quả. Cái vòng lẩn quẩn cứ tiếp tục bao vây họ, ngày lại ngày, họ cứ phải tiếp tục chịu đựng trên xứ người, một nơi không nhìn nhận Công uớc Tị Nạn với sự thiếu thốn tứ bề, chịu đựng và sợ hãi hàng ngày (không biết cảnh sát có tìm bắt họ tại nơi tạm trú hay bị bắt khi ra đường mua thực phẩm?).

Nếu bị bắt thì họ sẽ bị nhốt ở Trại Giam Di Trú đến bao giờ đây? Ngoài mối lo cho bản thân ở xứ người họ còn canh cánh trong lòng lo cho thân nhân bên Việt Nam, liệu họ có bị liên lụy vì có thân nhân đang đào thoát không? Không biết họ có bị trả về Việt Nam không và nếu bị trả về Việt Nam thì sẽ bị tù đày và khốn khổ làm sao kể xiết? Trăm ngàn câu hỏi kèm theo với trăm ngàn âu lo, chưa kể đến nỗi lo ngại thiết thực về nơi ăn, chốn ở hằng ngày.

Bây giờ đây, sau nhiều ngày tháng xa Houston, tôi nhớ ba má, anh chị, các em và đứa cháu mà ngày tôi bước chân ra đi mới có mấy ngày tuổi thôi, nay cháu đã gần chín tháng rồi, nhớ những người bạn quá lâu tôi không được gặp, những quán ăn tôi thích nhất, những món đồ tôi thường dùng khi còn ở Hoa Kỳ.

Hôm trước tôi có một giấc mơ thật là con nít: tôi và chị của tôi đi chợ, tôi chỉ hết món này đến món kia và nói với chị tôi rằng: “Bên Thái Lan không có món này, em phải mua hai gói mang theo”. Và cứ thế, từ từ cái xe đẩy chất đầy với tất cả những món bên Thái Lan không có, hoặc nếu có, cũng không giống như bên Hoa Kỳ.

Đang viết đến đây thì tôi lại mở bản nhạc “Ngày Trở Về” để nghe. Bài hát này làm tôi bật khóc vì tôi thương cho số phận của đồng bào tôi: trải qua bao dâu bể chiến tranh, ly hương sống tha phương cầu thực, xa thân nhân quyến thuộc, xa mồ mả tổ tiên. Riêng người tị nạn đang ở Thái Lan lại xót xa hơn, không dám nghĩ đến “Ngày Trở Về”.

Khi chuẩn bị sang Thái Lan làm việc, tôi nghĩ có lẽ làm việc xa nhà 1 năm thôi. Tuy nhiên, sau khi sang đây tôi mới hay công việc quá nhiều và vì không có đủ nhân lực nên tôi quyết định sau chuyến trở về này tôi sẽ tiếp tục làm việc tại Thái Lan thêm một thời gian nữa. Tôi sẽ trở lại nơi thật nhiều buồn lo, với hồ sơ chất như núi. Hàng ngày tôi tạ ơn trời đã cho tôi có được cơ hội giúp đỡ người tị nạn, như tôi và gia đình tôi xưa kia đã từng trải qua cảnh ngộ này.

Trong nỗi buồn cũng có niềm vui, đó là hiện có một số gia đình đang chuẩn bị lên đường định cư, họ đã được Cao ủy tị nạn chuẩn thuận quy chế tị nạn và đã được Toà Đại Sứ Hoa Kỳ phỏng vấn và chấp nhận hồ sơ định cư của họ. Họ đã được khám sức khỏe và học lớp Hội Nhập Văn Hóa Hoa Kỳ. Chỉ còn vài tuần nữa, họ sẽ được nhận vé máy bay để sang Hoa Kỳ định cư. Đây là điều tôi mong muốn sẽ xảy đến cho tất cả đồng bào của tôi, mong là “qua cơn bĩ cực đến thời thái lai.”

Kể lại những điều trên, tôi chỉ muốn giải bày cùng quý vị lý do vì sao tôi mang hoài bão dấn thân chia sẻ cùng những con người khốn khổ như chúng tôi ngày xưa -- họ là những con người đang khốn khổ ngày hôm nay.

Hôm trước, có một người tị nạn cho biết khi nghe tin tôi về Hoa Kỳ tháng 5 này thì họ thật hụt hẫng và lo sợ vì lại mất thêm một người luật sư. Tôi vội vàng trấn an cho biết rằng, tôi chỉ về trong một thời gian ngắn để thăm gia đình và gây quỹ thôi, sau đó sẽ trở lại ngay. Và mong sao sau chuyến đi này tôi sẽ trở lại Thái Lan với ít nhất một luật sư khác để cùng nhau sát cánh giúp đỡ các gia đình vẫn còn tị nạn tại Thái Lan.

Tạm biệt nhé Bangkok. Tôi sẽ quay trở lại trong một thời gian thật ngắn.

Hiện có khoảng 800 đồng bào đang lánh nạn ở Thái Lan trước cuộc đàn áp ngày càng leo thang ở Việt Nam. Để đối phó, năm 2010 BPSOS phối hợp với một tổ chức địa phương để thành lập Văn Phòng Trợ Giúp Pháp Lý ở Bangkok. Chúng tôi rất cần sự tiếp tay của mọi người có lòng với đồng bào, của những cựu thuyền nhân đã từng sống qua cuộc đời tỵ nạn, của những tổ chức từ thiện, và của tất cả những ai quan tâm đến thân phận của những nhà đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo giờ đây đang phải lánh nạn vì bị đàn áp và truy lùng. Mỗi người một tay, góp gió thành bão.

Mọi đóng góp sẽ được cấp giấy trừ thuế và xin gởi về:
BPSOS/RCS
PO Box 8065
Falls Church, VA 22041 - U.S.A.
[Nguồn: http://www.machsongmedia.com.]
GHI CHÚ:
BPSOS TƯỜNG TRÌNH VỀ BUÔN NGƯỜI: Xin mời tham dự buổi họp báo để LS An Phong tường trình tình hình của hơn 800 người tị nạn Việt Nam ở Thái Lan và Cô Vũ Phương Anh tường trình về nạn buôn lao động, buôn người từ VN. Tại phòng sinh hoạt báo Người Việt. Chủ nhật 3 giờ chiều, June 3, 2012. Contact info: Holly Ngo 562-458-2285.

An Phong

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.