Hôm nay,  

Kẻ Hợm Mình

19/05/201200:00:00(Xem: 18909)
Truyện ngắn của Morley Callaghan - Bản dịch của Đào Văn Bình

Đôi Lời Giới Thiệu:

Morley Callaghan sinh tại Toronto, Canada năm 1903. Ông theo học St. Michaels College, University of Toronto từ 1921-1925. Ông tốt nghiệp bằng cử nhân về nghệ thuật tổng quát và cũng học thêm rất nhiều những môn học khác. Ông cũng làm việc bán thời gian cho tờ Toronto Star Weekly và gặp văn hào Hemmingway tại đây và Hemmingway đã trở thành người hướng dẫn cho Callaghan lúc ban đầu. Mặc dù tốt nghiệp luật khoa năm 1928 nhưng Callagha lại mê viết văn.

Cuốn tiểu thuyết đầu tiên Strange Fugitive của Callaghan xuất hiện năm 1928. Năm 1929 ông ký kết với một nhà xuất bản ở New York để xuất bản một tuyển tập truyện ngắn nhan đề A Native Argosy. Ông lấy vợ và đáp tàu sang Pháp và tại Paris, ông làm bạn với Hemmingway, F. Fitzgerald và James Joyce. Trong một trận đấu quyền Anh giao hữu, ông hạ đo ván Hemmingway và tình bạn giữa hai người không còn được như trước nữa. Morley Callaghan chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các nhà văn theo trường phái tự nhiên của Hoa Kỳ. Những tác phẩm của ông xuất bản năm 1932, 1935, 1936 & 1937 với đặc điểm bàn luận về chủ đề thần học Thiên Chúa Giáo, mô tả nhân vật phức tạp, giải quyết những mâu thuẫn trong tình yêu theo kiểu nước đôi đã khiến ông trở nên một khuôn mặt lớn trong giới văn chương Bắc Mỹ. Ông được khá nhiều giải thưởng văn chương. Ông mất năm 1990 tại Toronto . Hai truyện ngắn nổi tiếng của ông là The Snob và Luke Balwins Vow.

Truyện ngắn The Snob của Callaghan dưới đây cho chúng ta thấy tình cảm rất phức tạp của chàng sinh viên Harcourt ở thập niên 1930 trong một đất nước giàu có, thanh bình Canada. Những tình cảm phức tạp đó có thể đưa tới xung đột, nếu không khéo sẽ gây đổ vỡ. Kính mời quý vị thưởng thúc.

Kẻ Hợm Mình
The Snob

Tại quầy bán sách của khu thương xá, chàng sinh viên trẻ John Harcourt thóang nhìn thấy cha mình. Trong đám đông xô đẩy nhau dọc lối đi, mới đầu chàng không tin chắc lắm, nhưng có những cái mà chàng biết rất rõ - đó là cái màu phía sau cổ của ông già, chiếc mũ nỉ bạc màu. Harcourt đang đứng với một người con gái mà chàng yêu mến để mua sách cho nàng. Suốt buổi chiều chàng đã nồng nàn nói chuyện với nàng nhưng cũng đầy rụt rè và xao xuyến như thể trong chàng vẫn còn ngõ ngàng tự hỏi tại sao nàng lại có thể thật sung sướng khi được đi bên cạnh chàng. Dưới chiếc mũ rơm rộng vành, khuôn mặt của nàng thật đẹp, mạnh khỏe và tỏa ra dáng vẻ đầy tự tin, thường quay qua nhìn chàng và mỉm cười mỗi khi chàng nói điều gì. Hai người thường nói chuyện với nhau như thế và chưa bao giờ dám bạo dạn bày tỏ hết tình cảm của mình. Harcourt cũng vừa mua sách xong, và cũng vừa thọc tay vào túi với một dáng vẻ tự nhiên và sẵn sàng như thể chàng vốn có thói quen mua sách cho các cô - thì ông già đầu bạc với chiếc mũ nỉ bạc màu đang đứng ở đầu quầy chợt quay nửa mình về phía chàng và chàng biết rất rõ mình chỉ còn cách ông cụ có vài thước.

Giọng nói lưu lóat thường nhật của chàng thanh niên bỗng ấp úng rồi trở nên thều thào như thể chàng sợ người chung quanh nghe thấy. Trong chàng dậy lên một một nỗi bực dọc khôn tả, chàng linh cảm thấy một cái gì đó thật quý giá mà chàng đang nắm giữ dường như sắp đổ vỡ. Cha chàng đang đứng thẳng thốn ở quầy trả tiền, ông cụ trầm ngâm lật đi lật lại cuốn sách trên tay. Rồi ông cụ lấy ra cặp kính lão từ cái bao da đã sờn, sửa đi sửa lại trên sống mũi rồi cúi nhìn cuốn sách. Chiếc áo manteau bỏ ngỏ, còn chiếc áo vest thì hai chiếc khuy không cài nút, tóc ông cụ quá dài còn bộ quần áo luộm thuộm khiến ông cụ trông như dân thợ, có lẽ một ông thợ mộc thì đúng hơn. Một nỗi bất bình dậy lên trong chàng khiến chàng muốn đau khổ kêu lên “Tại sao ông cụ lại ăn mặc như thể trong đời chưa bao giờ có một bộ quần áo tốt đẹp? Ông cụ chả để ý gì đến thế giới này đang nghĩ gì về ông cụ. Ông cụ chẳng để ý gì cả. Mình đã nói cả trăm lần là bố phải ăn mặc đàng hòang khi ra đường. Mẹ cũng đã nói như vậy. Ông cụ chỉ nhe răng cười. Và giờ thì Grace có thể thấy ông cụ. Grace có thể gặp ông cụ.”

Vì thế mà chàng Harcourt đứng yên như tượng đá, đầu gục xuống và linh cảm thấy một cái gì đau đớn sắp xảy đến. Chàng xao xuyến liếc nhìn Grace lúc này đã quay đầu lại quầy tính tiền. Trong số khách hàng mặt đỏ gay, người nào người nấy tỉnh bơ, dùng cả cùi chõ, xô đẩy nhau để dành lối đi, Grace nổi bật lên với vẻ đẹp lộng lẫy. Con người nàng tỏa ra một dáng vẻ rất tự tin về sự giao tiếp với mọi người, với mấy người bán hàng, với sách vở nằm trên kệ và với tất cả mọi thứ chung quanh nàng. Đầu vẫn cúi xuống, chàng nhích lại gần nàng thì thào với giọng thật lo lắng, “Mình kiếm chỗ khác để uống trà đi Grace.”

“Chút xíu nữa anh,” nàng đáp.

“Mình đi ngay bây giờ đi.”

“Chút xíu nữa mà anh,” nàng lơ đãng nhắc lại.

“Ở đây ngột ngạt quá. Mình đi ngay bây giờ đi.”

“Sao anh nóng ruột quá vậy?”

“Ở đây chẳng có gì cả ngòai mớ sách cũ trên kệ.”

“Có thể có một số mà em rất cần trong cuộc sống của em,” nàng vừa nói vừa mỉm cười tươi tắn và không hề nhận biết mối lo âu trên khuôn mặt của Harcourt.

Chính vì thế mà Harcourt phải tiến lại phía sau nàng do đó mỗi lúc chàng càng đến gần ông cụ hơn. Có lúc chàng ngửng đầu lên, liếc nhìn qua một bên với vẻ lơ đãng, Còn cha chàng, với khuôn mặt hồng hào, phúc hậu, vẫn yên lặng đọc sách nhưng lúc này dường như trên khuôn mặt của ông cụ có dáng vẻ tự lự như thể trong sách có cái gì làm ông cụ xúc động cho nên ông cụ quyết định đứng lại đó đọc tiếp.

Ông già Harcourt có dư thời gian để vui thú bởi ông đã nghỉ hưu sau khi làm việc cực nhọc suốt cả đời. Ông gửi chàng vào đại học và ước mong chàng rạng rỡ với người ta. Mỗi tối khi trở về nhà, dù sớm dù khuya, chàng thường vào phòng bố mẹ, bật đèn lên để chia xẻ với song thân những gì hay đẹp trong ngày. Cả hai lắng nghe chàng nói và chia xẻ với chàng về một thế giới mới mà chàng đang ngụp lặn trong đó. Cả hai ngồi dậy trong bộ quần áo ngủ, mỗi khi mẹ chàng hỏi điều gì, cha chàng đều chăm chú lắng nghe, đầu nghiêng qua một bên, mỉm cười hoặc chau mày. Tất cả những hình ảnh đó hiện rõ trong tâm trí chàng lúc này thế nhưng có một niềm khát khao và một nỗi đau đớn mỗi lúc cứ đè nặng lên chàng khi chàng sợ hãi liếc nhìn cha mình, nhưng chàng bướng bỉnh cho rằng, “Mình không thể giới thiệu ông cụ với Grace. Mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn nếu ông cụ không nhìn thấy hai người. Phải mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn. Như thế hợp lý hơn. Gặp Grace chỉ làm cho ông cụ thêm lúng túng.” Vào lúc này thì Harcourt biết mình đang xấu hổ, nhưng chàng biện minh cho sự xấu hổ của mình với lý do cha của Grace là người có phong thái lịch sự và tự tin vì suốt đời sống trong một xã hội giàu có và thành công. Thỉnh thỏang khi ghé vào nhà Grace lễ phép nói chuyện với mẹ nàng, chàng không khỏi suy nghĩ về vẻ đơn sơ của nhà mình, về giọng nói tiếng cười xuề xòa, mộc mạc của cha mẹ và chàng quyết định phải làm sao để gia đình Grace nể mặt.


Chàng thận trọng ngước nhìn lên vì hai người chỉ còn cách nhau khỏang ba thước, nhưng vào ngay lúc đó, ông cụ cũng ngửng đầu lên nhưng ánh mắt của Harcourt lại tránh qua một bên, nhìn về phía lối đi, về phía quầy tính tiền, làm bộ như không thấy gì cả. Khi đôi mắt xanh và bình thản của ông cụ chú mục qua cặp mắt kính, có một lúc dường như hai người đã nhìn thấy nhau. Không biết rõ là ai, nhưng khi chàng Harcourt quay lưng và hối hả nói với Grace thì chàng biết rõ là cha chàng đã nhìn thấy chàng. Chàng biết chắc như vậy vì vẻ bình thản trong đôi mắt xanh của ông cụ. Niềm xấu hổ trong chàng trào dâng và nó làm chàng đau khổ khi chàng đứng đó bất động, không biết làm gì cả.

Cha chàng quay lui, đi dọc theo hành lang, bước đi thẳng thốn trong bộ quần áo đã sờn cũ, đôi vai ông cụ giang rộng và không quay đầu nhìn lại. Rồi ông cụ bước xuống đường với dáng vẻ trầm tư mà chàng biết chắc mỗi lúc mỗi trở nên sâu nặng và nghiêm trọng.

Chàng trẻ tuổi Harcourt đứng bên cạnh Grace, khẽ cọ vào đôi vai mềm mại của nàng và thoang thỏang ngửi thấy mùi nước hoa mà nàng dùng. Đó, đứng sát bên mình, nàng là tất cả những gì mà chàng khát khao ôm chặt lấy, nhưng giờ đây chàng chỉ còn thấy một nỗi thù hận ghê gớm khiến chàng ủ rũ cúi mặt và đứng bất động.

“Anh nói đúng đó John,” giọng nàng nhỏ nhẹ và hơi ề à. “Vào ngày nóng nực như thế này ở đây khó chịu thật anh ạ. Giờ mình đi. Nè, có bao giờ anh nghĩ rằng đứng ở khu thương xá lâu như thế này có khi mình trở nên ghét người ta không biết chừng?” Nhưng vừa nói nàng vừa mỉm cười cho nên Harcourt biết chắc rằng nàng chẳng ghét ai cả.
“Em ghét người ta có phải không?” chàng gặng hỏi.

“Ghét người ta? Mà người ta nào? Anh nói gì vậy?”

“Anh muốn nói,” chàng bực tức nói tiếp, “em không thích những người mà em gặp ở đây chẳng hạn.”

“Đâu phải vậy. Mà ai ghét? Anh nói gì vậy?”

“Thiên hạ đều biết rằng em không,“ chàng nói bừa với tất cả sự bực tức để tấn công nàng. “ Anh muốn nói em không thích những người bình dị, chân chất là những người mà em gặp ở khắp thành phố này.”

Chàng thốt ra những lời nói này như thể chàng muốn chọc giận nàng nhưng trong thâm tâm thật sự chàng muốn nói, “ Em không thích gia đình anh. Tại sao anh không muốn đưa em tới nhà để ăn cơm tối với cha mẹ anh? Em sẽ có thái độ khinh khỉnh bởi vì bố mẹ anh không có tính tự phụ, kiêu căng. Ngay khi cha anh nhìn thấy em, ông cụ biết rằng em không muốn gặp ông cụ. Cứ nhìn cách ông cụ bỏ đi là anh biết mà.”

Cha chàng đang trên đường về nhà và chàng biết rằng trong bữa cơm tối nay cả nhà sẽ gặp lại. Mẹ chàng và em gái chàng sẽ nói mau mắn hỏi đủ chuyện nhưng còn cha chàng thì ông cụ sẽ không nói gì với chàng, không nói gì với mọi người. Rồi trong ký ức của chàng sẽ nổi lên hình ảnh của cha chàng với cái nhìn đăm chiêu qua đôi mắt xanh và cả nỗi đau đớn của ông cụ mà chàng biết rất rõ khi ông cụ bỏ đi.

Khi hai người bước qua hiệu sách, Grace ngắm nhìn khuôn mặt sầu thảm của Harcourt và nàng hiểu rằng Harcourt đang giận dữ trong lòng cho nên sự bực tức và nỗi bất bình trong nàng lại dâng lên, nàng nghiêm nghị nói, “Theo em nghĩ anh có quyền bực tức trong một buổi chiều nóng nực như thế này, nhưng còn em, nếu em không thích chỗ này thì em có quyền không thích. Anh cũng muốn đi chỗ khác cơ mà. Có ai thích đứng lì ở đây trong một buổi chiều nóng nực như thế này đâu? Nói cho anh biết, em bắt đầu không ưa những người lố bịch đụng vào người em, tất cả những ai gần em. Như vậy thì có sao không?

“Thì em là kẻ hợm mình.”

“Em mà là kẻ hợm mình à?” nàng tức giận hỏi lại.

“Rõ ràng em là kẻ hợm mình,” chàng nói.

Lúc này hai người đã ra ngòai cửa và sửa soạn bước xuống đường. Trong ánh nắng chan hòa, giữa dòng người đang tản bộ dọc theo con phố, khi hai người sánh bước bên nhau, Harcourt cố tìm cho ra những câu nói để diễn tả hết ý nghĩ thầm kín của mình đối với Grace, “Anh biết rất rõ cảm nghĩ của em đối với những người không thích hợp với lối sống của gia đình em,” chàng nói.

“Anh đúng là kẻ lố bịch,” nàng nói. Lúc này mặt Grace đỏ gay và vì không biết làm cách nào để diễn tả hết cơn giận dữ, cho nên nàng ngửng cao đầu và bước thẳng.

Chưa bao giờ hai người nói với nhau như thế nhưng giờ đây thì cả hai sẵn sàng tấn công để làm tổn thương nhau. Sau một thôi một hồi, nàng bắt đầu tranh luận với Harcourt rồi nàng trấn tĩnh lại, nói, “ Nghe đây John, tôi nghĩ rằng anh không còn muốn đi với tôi nữa. Uống trà với nhau làm gì thêm vô ích. Tôi nghĩ chúng mình chia tay ngay bây giờ tốt hơn.”

“Được lắm,” Harcourt nói. “ Chào em.”

“Chào anh.”

“Chào em.”

Nhưng khi nàng bỏ đi, bước đi khỏang hai bước thì Harcourt run sợ, vội vã nắm chặt lấy tay nàng, năn nỉ, “Đừng bỏ đi Grace à.”

Tất cả nỗi bực dọc và căm tức giờ đây biến mất trong chàng và chỉ còn lại một niềm khát khao và xao xuyến qua giọng nói, ”Xin Grace tha thứ cho anh. Anh không có quyền nói với em như thế. Không hiểu tại sao anh lại thô lỗ như vậy hoặc có cái gì đây. Anh lố bịch thật. Anh lố bịch quá em à. Xin em tha thứ cho anh. Đừng bỏ anh.”

Harcourt chưa bao giờ nói ấp úng như thế và nói bằng cả khối chân tình cho nên Grace bắt đầu xúc động. Trong khi lắng nghe chàng nói và hiểu được tấm lòng thương mến của chàng, do sự xung đột lúc vừa rồi, dường như họ xích lại gần nhau hơn lúc nào hết và Grace bắt đầu cảm thấy e thẹn. “Em không hiểu tại sao như vậy anh ạ. Em nghĩ cả hai chúng ta đều bực bội trong mình. Có lẽ tại thời tiết nóng quá,“ nàng nói. “Nhưng em không giận anh đâu.”

Harcourt đau khổ gật đầu. Chàng nồng nàn nói cho Grace biết là chắc chắn cha chàng sẽ quý mến nàng, nhưng chưa bao giờ trong đời chàng cảm thấy đau khổ như thế. Chàng nắm chặt lấy tay Grace như muốn ghì chặt lấy cái gì thân thương nhất trong đời như sợ nó có thể vuột khỏi tầm tay… và trong đầu chàng lại hiện lên và còn tiếp tục hiện lên hình ảnh cha chàng đã lặng lẽ bỏ đi và ông cụ không quay đầu trở lại./.

Cước chú: Quý vị, quý bạn có thể vào Google rồi đánh máy The Snob Morley Callaghan để đọc nguyên tác bằng tiếng Anh.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.