Hôm nay,  

Người Điên Thơ Mộng

27/05/201200:00:00(Xem: 12301)
Cư dân cùng xóm, khi đi dạo trên lối mòn quanh co ven dòng suối, thường dừng bước trước hàng hiên tôi, vừa ngắm nghía, vừa thì thào khen ngợi.

Mà có chi nhiều đâu! Hai rừng lựu, một vườn hồng, hai bồ đề đại thụ, hai rừng mai, một vườn quýt, một bụi chuối, hai vườn chanh, một bờ rào trúc tím hoa vàng, uốn ghép theo ngẫu hứng từ bốn câu kệ của các thiền sư “Thanh thanh túy trúc. Tận thị pháp thân. Uất uất hoàng hoa. Vô phi Bát Nhã”, đại ý “Trúc biếc xanh xanh, đâu cũng là pháp thân. Hoa vàng rậm rạp, đâu chẳng là Bát Nhã”, rồi dăm giò phong lan tựa lưng đó đây và một chậu rau thơm đủ loại, cũng chen chân vào cho … thêm hương.

Tả thế này, chắc bạn nghĩ cái hàng hiên tôi là công viên mới chứa đủ! Thưa không, tất cả cây cỏ lá hoa này đều bị tôi dỗ dành “Đừng lớn! Đừng lớn nghe em! Hãy cứ là trẻ thơ để đùa với mưa, cười với nắng, chứ lớn sẽ khổ lắm!” Chúng đều nghe lời tôi, trừ chậu rau thơm (vì rau không lớn thì tôi lấy chi mà cuốn với bánh tráng!) Còn lại tất cả đều chung một họ là Bonsai, dù anh chị nào cũng xấp xỉ thập tam, thập lục niên.

Chúng đều là những đứa con tôi cưu mang từ trứng nước, nghĩa là, tôi gieo hạt từ những giống cây tôi thích. Khi chúng nhú lên, tôi lựa những cây mạnh, sang vào chậu. Khoảng hơn một tháng, từ khi sang chậu mới biết cây nào ở, cây nào đi. Đã chủ ý tạo chúng thành bonsai thì cho đất ít, nhưng thuốc bổ phải đầy đủ. Khi rễ đã bén vững vàng thì chăm sóc chúng, chẳng nhọc công gì. Nếu trời nóng thì hai ngày, mát thì ba ngày một lần, cầm vòi nước, set up ở dạng shower( là những tia nước nhỏ), rồi lia đều một vòng là xong! Thêm chút lưu tâm là sự ân cần lắng nghe ngôn ngữ thầm lặng của chúng. Nếu lá lựu vàng, chúng dư hay thiếu nước đây? Nếu chanh không trổ hoa, chắc chúng đang xin thêm thuốc bổ. Ngược lại, quýt đã lác đác kết nụ rồi, không thấy, mà cho thuốc bổ vào là nụ rụng hết!

Chẳng phải chỉ con người cần hiểu và thương, mà vạn hữu cũng cần như ta, để cùng mang cho nhau hạnh phúc. Không tin, bạn cứ thử thủ thỉ chuyện trò với cây cỏ mà xem, bạn sẽ ngạc nhiên vì tìm thấy tri kỷ ngay trong vườn nhà bạn.

Hôm qua, đang tưới tới gốc bồ đề, khi khổng khi không, hai câu thơ Bùi Giáng bật lên trong trí, mạnh tới mức vòi nước nghiêng sang vườn chanh:

“Người điên, cái bóng cũng điên

Người khùng, cái mộng oan khiên cũng khùng”(*)

Dường như cội bồ đề mỉm cười bảo: “Đại thụ thơ gọi rồi đó”

Tôi bèn tắt nước, lấy chổi quét sàn. Và những nhát chổi chậm, thong dong theo bước chân thi nhân độc đáo của thế kỷ này.

“Ngó chân, ngón thiếu ngón thừa

Còn bao nhiêu bước, duỗi vừa cuộc chơi?”(*)

Tôi thảng thốt dừng chổi. Đúng là cụ Bùi Giáng mới thả được chữ “duỗi” tuyệt hảo vào cái khí phách phiêu bồng thế này.

Có lẽ, không người Việt Nam nào không một lần từng nghe đến tên Bùi Giáng, nhất là sau thời điểm cuối tháng Tư 75.Cái hình ảnh bị cho là một ông già điên, lang thang đầu đường xó chợ, ngửa cổ ngâm thơ, vung tay ca hát, không xa lạ gì với đám trẻ trong làng, ngoài phố. Nhưng với người lớn, nhất là những người trong giới văn học nghệ thuật thì Bùi Giáng có điên không?

Ngót bốn mươi năm, thiên hạ đã tốn quá nhiều giấy mực để viết về người điên tài hoa này rồi, và hình như càng viết lại càng thấy chính mình mới điên, vì có vận dụng bao nhiêu cái tỉnh cũng chẳng diễn tả nổi phần nào cái điên này!

Biết thế, tôi dại gì mà viết! Sát na bất chợt gặp lại người, chỉ xin vừa thong thả quét sân, vừa lâng lâng hạnh phúc khi tàng-thức trải ra dăm câu thơ đã thuộc tự bao giờ:

“Tôi cười, tôi khóc bâng quơ

Người nghe cười khóc, có ngờ chi không?”(*)

Dạ không. Không ngờ chi cả! Đứng trước gương, hình hài vật lý sẽ hiện trung thực 100%, nhưng chỉ là bóng của hình “Người điên, cái bóng cũng điên” Bùi Giáng đứng trước gương, thấy một ông già râu tóc bù xù, áo quần tơi tả thì đó là cái bóng của người điên! Phàm những gì không theo ước lệ người đời đặt ra thì bị cho là điên? A ha!


Nhưng những gì bên trong cái bóng, không hiện ra trong gương là chi? Ai thấy được cái đó? Ai thấy được những oan trái, nhân quả, luân hồi, vay trả? Ai thấy được cánh bướm này có thể là cha, nụ hoa kia có thể là mẹ từ vô lượng kiếp nào?

Có Chư Phật, Chư Bồ Tát thấy, nhưng nhắc nhở hoài, hầu hết chúng sanh vẫn không tin, vì nếu tin, thì cõi ta-bà đâu đến nỗi tiếp tục ngập ngụa tang thương thế này!

Nếu nhìn hình hài người điên Bùi Giáng qua gương thì thấy “cái bóng cũng điên” nhưng nhìn tâm Bùi Giáng “Người khùng, cái mộng oan khiên cũng khùng”, lại chẳng thấy điên khùng chút nào! Điên khùng mà biết tới oan khiên ư? Thử hỏi bao người tỉnh, e rằng họ đang lao vào “mộng-oan-khiên” mà cứ tưởng “thực-hạnh-phúc” (trong đó có tôi, một thời!)

Một người làm thơ dễ và nhanh, như thò tay lấy chữ trong túi ra, đã tự phác họa mình:

“Điên cuồng mà tưởng nên thơ
Cuồng điên mà tưởng làm thơ như thần!”(*)

Điều này, chắc cư sỹ Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm năm xưa biết rõ hơn ai hết. Ông rất trân quý Bùi Giáng, nên gặp đâu là nói:

- Có gì mới, đưa tôi in đi!

Vừa nói buổi sáng, buổi chiều đã thấy nhà thơ lững thững ghé quán sách, móc trong bị ra một xấp dầy, ném huỵch xuống bàn. Thanh Tuệ sửng sốt:

- Viết hồi nào thế?

- Thì viết lúc ông bảo viết đó. Muốn nữa không?

Ông Thanh Tuệ chia sẻ với thân hữu là đã từng không in kịp thơ Bùi Giáng, vì cứ hỏi thì thơ tuôn ra ngay!

Mà có phải chỉ là thơ đâu! Viết và nói về những triết gia lừng danh Âu, Á, từ Nietzsche, Heidegger, Sartre, Camus đến Khổng Tử, Lão Tử, đối với Bùi Giáng cũng chỉ đơn giản như đang giỡn thôi; nhưng giới văn học nghệ thuật cùng thời và cả hàng hậu bối, khi lần giở những trang tiểu luận đại luận này, đều kinh hồn bạt vía vì những nhận định sắc bén và cực kỳ mới mẻ. 

Tài hoa như thế mà cứ bị gán là ông già điên, nên mới có những câu ỡm ờ cho vui vẻ cả làng:

“Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa
Gọi tên? Là một, hai, ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm”(*)

Ai người tỉnh, xin giải dùm mấy câu trên, xem có thấy rưng rưng trước tấm lòng của một người sanh lầm thế kỷ hay không. Rồi lời này mới thấm thía hơn nữa:

“Rong chơi râu tóc bạc phơ
Còn nghe đắm đuối vần thơ yêu người” (*)

Ngàn trang giấy tỏ bày nhân bản cũng chỉ đến thế mà thôi. Tình yêu đời, yêu người, xót xa cùng cực, đồng thời cũng cô đơn cùng cực khi đã biết chẳng tìm đâu tri kỷ:

“Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên mầu ấy không?
Ta đi, còn gởi đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù!”(*)

Giữa những ngày tháng ly tan, người người hoảng loạn chạy xa đất mẹ, là những vết đau cắt da xẻ thịt trong cơn ác mộng, thấy mình lạc lõng ngay giữa quê nhà. Người điên nào trong cơn đau ấy mà khóc lên được bằng nước mắt của cả biển đông, chỉ qua hai câu thơ tê tái này không:

“Hỗn mang về giữa hiên nhà
Bây giờ cố quận tên là Chiêm Bao!”(*)

Chắc hẳn, trong cô đơn cùng cực, cũng có lần thi nhân chắp tay hướng về một giáo pháp đã hứa khả rằng, mỗi chúng sanh đều có một viên minh châu như nhau. Viên ngọc đó vốn sẵn, không từ đâu đến, không đi về đâu, nương viên ngọc ấy thì không chi mà không qua được, vì ánh sáng đó soi đường chỉ lối cho ta chuyển vọng thành chân, chuyển khổ thành vui, chuyển mê thành ngộ.

Ánh sáng viên minh châu trong Người-Điên từng rực rỡ tuyệt vời Bát Nhã thế này:

“Uống xong ly rượu cuối cùng
Bỗng nhiên chợt nhớ đã từng đầu tiên
Uống như uống nước ngọc tuyền
Từ đầu tiên mộng, tới phiền muộn sau” (*)

Nếu được đổi một ngàn phút tỉnh quờ quạng của mình, lấy một phút điên siêu đẳng này, tôi sẵn sàng xếp hàng ngay, chờ tới phiên. Phải xếp hàng, vì tôi chắc, không riêng tôi nhiệt thành xin đổi.

Thế kỷ này, tìm đâu thêm một người điên cực kỳ thơ mộng như tiên sinh Bùi Giáng!

Thế nên đành:

“Thưa em, rượu uống bây giờ
Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình!” (*)

Hạnh Chi
(Tào-Khê tịnh thất – sau một thời thiền tọa)
(*) Thơ Bùi Giáng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.