Hôm nay,  

Lời Của Biển

28/05/201200:00:00(Xem: 11311)
Mùa hè đang thiền hành đến gần vạn hữu. Những thành phố ven biển, cư dân dường như không thể chờ lâu hơn. Cuối tuần, bãi biển đã đông, dù đôi khi gió vẫn lạnh. Người đi dạo, kẻ đi câu, nhóm này trượt nước, nhóm kia dong buồm, cô bé này nhặt vỏ sò thì cậu bé kia tỷ mỉ xây lâu đài cát …. Những hình ảnh quá thân quen với biển.

Biển muốn nói với người rằng, những mùa đông, chẳng phải chỉ người nhớ biển đâu, mà biển cũng rất nhớ người. Không tin, vào ngày mùa đông nào, người ráng chịu rét, thả bộ ra ven biển, xem có nghe biển tỉ tê thương nhớ qua sóng vỗ ghềnh đá hay không?

Làm sao nghe sóng mà hiểu lời biển ư?

Người quên rồi à? Bồ Tát Quan Thế Âm chỉ lặng nghe sóng biển mà lập ra pháp môn Nhĩ-Căn-Viên-Thông đấy! Biển đã từng rất hoan hỷ vì được là phương tiện để Bồ Tát quán chiếu, nhận ra Tánh-Nghe khác với Cái-Nghe.

Tánh-Nghe không sanh diệt, luôn sẵn đó, tiếp nhận âm thanh ở tầng sâu thẳm bằng sự trung thực tuyệt đối, không theo mô hình như Cái-Nghe, là phải có Căn duyên với Trần mới sanh Thức.

Chắc người nhớ giai thoại Đức Thế Tôn truyền ngài Anan thỉnh một tiếng chuông, rồi hỏi:

- Có nghe không?

- Dạ, có nghe.

Khi không thỉnh chuông nữa, Đức Thế Tôn lại hỏi:

- Có nghe không?

- Dạ, không nghe.

Biển thích nhất ở lời dạy tiếp theo:

- Sao ông biết là không nghe? Cái gì cho ông biết là không có tiếng chuông? Này Anan, hãy quán chiếu ngay đó. Cái ông “có nghe” là do Căn (tai) duyên với Trần (tiếng chuông) mà sanh Thức (nhận biết âm thanh). Còn cái cho ông biết không có tiếng chuông, thì chính là Tánh-Nghe. Cái-Nghe biến diệt theo căn trần. Tánh-Nghe thì lặng thinh, ở đó nhận diện mà không đi đâu cả.

Giai thoại này, biển chỉ biết được tới đó, do một lần có hai Phật tử thả bộ theo bờ cát, vừa hứng gió biển, vừa nói chuyện đạo. Biển quá rảnh rang, quanh năm suốt tháng chẳng có gì làm, nên biển nương theo tinh thần lời dạy này mà lân la, gần gũi, lắng nghe tâm sự của những người tìm đến biển, nhờ đó mới biết rằng cõi ta-bà, người người khổ quá!

Cũng chính vì lặng lẽ theo tâm người mà biển nghe được đôi lời dạy của Đức Thế Tôn. Nghe rồi, mới thấy lạ cho người, vì người biết nói, mà khi hành xử thì lý sự thường lại chẳng đi đôi!

Cậu sinh viên ngồi trên bờ đá, bứt đầu bứt tai, lầm rầm một mình: “Thi rớt rồi! Ăn làm sao, nói làm sao với cha mẹ đây!? Ai chả biết, học tài thi phận, nhưng thi rớt thì nhục qúa! nhục quá!”

Khiếp chưa? Làm như trên đời chỉ có một mình cậu ta thi rớt! Sao không chấp nhận thực tại là rớt rồi thì học chăm chỉ hơn, chờ thi lại. Thi rớt có phải là trời sập đâu mà ra biển gào khóc vậy!?

Rồi lại cặp vợ chồng luống tuổi, ngồi sau đụn cát, than thở:

- Con với cái, sao cùng một nhà mà chẳng giống nhau! Phải chi cái ngoan ngoãn hiếu thảo của con Ba, san sẻ bớt cho thằng Út thì mình đỡ khổ biết mấy! Khuyên học cái nọ lại đòi học cái kia, học dở chừng, kêu không thích, không hợp, lại đổi qua cái khác. Rầy la thì lớn tiếng cãi, quăng sách, quăng bút như quăng vào mặt mình. Biết thế, thà sanh ra quả trứng, đem luộc, còn có bữa ăn!

Ối trời ơi, biển nghe mà thấy khổ còn hơn đương sự khổ! Thế nhưng biển sửng sột khi bà vợ nhỏ nhẹ an ủi:

- Thôi ông à, sanh thì phải dưỡng, đó là bổn phận trách nhiệm mình. Nó nghe lời được bao nhiêu là duyên phận nó. Ông không nhớ trong kinh có dạy rằng cha mẹ, con cái, hay thân bằng quyến thuộc, có khi vì nhiều đời nhiều kiếp còn ràng buộc ân oán chưa xong mới lại tìm gặp nhau để ân đền oán trả. Ông khen con Ba ngoan, có lẽ nó tìm mình trả ơn thuở nào, còn thằng Út hư, chắc là mình nợ gì kiếp trước, nó đến đòi. Nhưng ngoan hay hư thì kiếp này chúng nó đều đang là con mình, mình cứ mang tình thương mà đùm bọc, có phải nhẹ lòng không?

Ông vin câu đó, nguýt bà một cái dài:

- Thì ra tôi cũng nợ bà hồi nảo hồi nào, nay bà tìm tôi mà càm ràm suốt ngày!

Bà phản ứng ngay:

- Ông mà nợ gì. Tui mới là con nợ nè, cơm bưng nước rót hơn bốn chục năm, chưa được một lời cám ơn ngọt ngào, chỉ toàn là trách với móc!

Như vậy thì chắc họ đều biết, đều tin có nhân quả, có sanh tử luân hồi. Rõ ràng người biết, mà lại hành xử như không biết! Răng mô dị rứa!?

Cũng như, biển vừa chứng kiến một hoạt cảnh, ngay tại đây, ngay bãi cát bên hàng dừa đó. Hai vợ chồng với ba con nhỏ, trải tấm khăn dưới gốc dừa rồi bầy thức ăn trưa, cùng nhau ăn uống vui vẻ. Ăn xong, hai người lớn đọc sách, hai bé gái chạy loanh quanh, còn bé trai thì bắt đầu chơi cái trò cổ điển ngoài bãi biển, là xây lâu đài cát. Bé khéo tay, khá thận trọng, tỷ mỉ, nên dần dà thành hình, tuy cái cổng thì to đùng, mà lâu đài thì lại quá nhỏ, so với cổng. Nhưng nhìn gương mặt hân hoan ngắm qua, nhìn lại của bé thì biển nghĩ rằng chẳng phải bé thiếu kỹ thuật, mà chắc có dụng ý gì. Ngay khi ấy, hai bé gái chơi rượt bắt nhau, chạy như mũi tên, cùng đâm sầm vào lâu đài, làm sụp đổ tan tành!

Bé trai vừa đấm hai bé gái túi bụi, vừa gào khóc:

- Sao làm đổ lâu đài của tui? Vua và quân lính sắp về tới rồi! Hu! Hu! Làm trả lại tui mau lên!

Bố mẹ cùng buông sách, chạy đến vỗ về bé trai. Người bố giảng giải:

-Nín đi con, có chi đâu mà tiếc, mà khóc. Lâu đài này bằng cát, có phải thật đâu! Có giữ mãi được đâu! Nếu hai chị không đạp phải thì lát nữa đây, gió lớn cũng đủ thổi bay hết!

Điều đó thật quá đi chứ! Lâu đài bằng cát mong manh, làm sao mà giữ lâu được. Đứa bé trai chắc cũng biết thế, vì nhiều phần, chẳng phải đây là lần đầu bé chơi trò này. Nhưng bé vẫn sụt sùi tiếc rẻ cái không thật. Tệ hơn nữa, không chừng bé còn đang lo lắng vì trí tưởng tượng là nhà vua và quân lính sắp về tới, mà thành siêu quách đổ rồi, vua sẽ ngự ở đâu?

Này, biển hỏi thật người, khi người dỗ dành đứa bé đừng khóc, đừng tiếc, vì lâu đài cát là cái không thật, không nắm giữ mãi được, người có phút nào nghĩ lại chính mình?

Biển từng chứng kiến bao cảnh đời, nghe bao nhiêu tâm sự, biển e rằng không chỉ các em bé xây lâu đài cát, khi đổ mất thì tiếc, thì khóc, mà người lớn cũng từng xây, chẳng phải một, mà có khi nhiều, thật nhiều lâu đài cát; rồi khi mất cũng đau khổ, khóc lóc tả tơi, có khi cuồng điên hủy mình vì mất cái không thật đó!

Lâu đài cát của người lớn nhiều hình dạng khác nhau lắm. Nghe này, xem biển nói có sai không. Đó là tình ái, danh vọng, tiền tài. Khai triển ba món này ra thì thấy ngay cơ man nào là nguyên nhân của những khổ đau!

Tình nào mà không khi đầy khi vơi? Danh vọng nào mà không khi sang khi hèn? Tiền tài nào mà không khi còn khi mất? Vậy mà suốt kiếp nhân sinh, người người đều lao vào những mục tiêu ảo tưởng này, như thiêu thân lao vào lửa. Khi không đạt được điều mong muốn, có phải người cũng khổ lo trăm mối vì những trí tưởng mơ hồ. Như đứa bé, bị phá vỡ “lâu đài không thật”, đã tiếc, lại còn buồn lo cuống cuồng vì “vua và quân lính không thật”, sắp về tới, sẽ ở đâu?

Toàn là những cái “không thật”, luôn quay cuồng người người trong vòng “khổ thật”.

Lại một lần, thấy hai người trẻ ngồi trên ghế đá, tưởng họ thủ thỉ yêu đương, biển tò mò đến gần. Ai dè, họ đang chia sẻ về một đoạn trong kinh Vô Lượng Thọ. Đoạn đó thế này:

“Cao sang nghèo khó, lớn nhỏ nam nữ, suy nhớ chồng chất, do tâm sai sử. Không ruộng lo ruộng, không nhà lo nhà, họ hàng của cải, có không cũng lo, được một thiếu một, lo cho bằng người, vừa được chút ít, lại càng lo hơn”

Vậy, sự đau khổ tự mình chuốc lấy, vì do không biết đủ, không biết chấp nhận hạnh phúc là cái mình đang có, phải vậy không?
Hiếm lắm mới có lần biển nghe được ai đó, nói câu này: “Người an vui với cuộc sống thì không cần phải có mọi thứ tốt nhất trên đời, mà chỉ cần sống tốt nhất với những gì đang có”

Biển thấy điều này đơn giản quá, đơn giản như câu chuyện của hai người chán đời đến mức muốn hủy đời, mà biển cũng tình cờ nghe kể. Chỉ tiếc, biển không nhớ xuất sứ. Nội dung câu chuyện thế này:

Đêm khuya, cô thiếu nữ bị tình phụ, lang thang ra biển với ý định tự trầm. Cũng giờ đó, tại nơi đó, anh thương gia thất bại trên thương trường, xấu hổ, tuyệt vọng, cũng muốn chết. Chàng phát hiện ra nàng trước. Chàng chạy đến:

- Này cô, đêm hôm khuya khoắt, cô một mình ra đây làm gì? Cô định tự tử hả?

Chạm đúng vết thương, nàng òa lên khóc:

- Anh ấy phụ tôi! Tôi đã tin tưởng. Tôi đã trao hết. Tôi đã mất hết. Thiếu anh ấy, tôi làm sao sống được!

Chàng nhìn nàng. Người thiếu nữ còn trẻ và đẹp, thiếu chi cơ hội để có hạnh phúc khác. Chàng đã ân cần an ủi nàng như thế. Và kỳ diệu thay, chàng sửng sốt khi nghe chính giọng mình dõng dạc nói tiếp với nàng rằng:

- Trước khi gặp người phụ bạc ấy, cô vẫn yêu đời, vẫn trẻ, vẫn đẹp, thì nay, không có người phụ bạc kia, cô nào mất gì đâu! Hãy đứng lên, và đi vào thành phố, ở đó, cô còn biết bao bạn bè, thân thuộc, yêu thương và đón chờ cô về.

Thiếu nữ mở to mắt, nhìn người đối diện.

Chẳng lời cám ơn nào giá trị hơn là giòng lệ tỉnh ngộ.

Lặng nhìn thiếu nữ đi vào thành phố bằng những bước chân sáo, chàng mới nhận ra rằng, đó chính là những lời mà trong sát na mầu nhiệm vừa rồi, chàng đã bật ra để nói với chính mình: “Ta vào đời với hai bàn tay trắng, giờ có làm ăn thất bại cũng chỉ là về với trắng tay! Có mất gì đâu!”

Nếu được chứng kiến, thế nào biển cũng tìm cách bảo anh chàng hãy chạy theo thiếu nữ, xin hộ tống nàng về nhà. Chỉ là nghĩa cử hào hiệp của bậc trượng phu thôi, nhưng biển thật tình tin rằng nếu trở thành đôi bạn thì đó sẽ là hai kẻ hạnh phúc lâu dài hơn những đôi bạn khác, vì họ đã có kinh nghiệm bản thân về những gì quý giá trong tầm tay. Chỉ khi nào biết nhìn thẳng vào những đau thương mất mát bằng con mắt trí tuệ với lòng dũng cảm rực lửa thì mới tìm được sự giải thoát.

Biển từng nghe một ông cụ, sảng khoái ngâm cho nhóm bạn già của mình thưởng thức hai câu thơ mà cụ nói tác giả là Thiền-sư Trúc Lâm, tức là vua Trần Nhân Tông của nước Việt Nam đấy:

“Áo rách ôm mây, ban mai húp cháo
Bình xưa dốc nguyệt, trời khuya nấu trà”

Người khổ công nhọc sức đến bao giờ thì tiền tài danh vọng mới mon men đến gần được như vua?

Vậy mà vua bỏ hết, lên non đạm bạc, hạnh phúc khôn cùng!

Nếu bắt chước vua khó quá, người đâu cần phải bỏ hết lên non. Chỉ cần biết đủ và trân quý hiện tại, là gánh nặng khổ đau phiền não sẽ lập tức được đặt xuống rồi.

Thế mà ít ai chịu buông.

Dieu seul le sait!
Huệ Trân
(Tào-Khê tịnh thất – giờ chỉ tịnh, một ngày tịnh tu, tháng Năm)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.