Hôm nay,  

Khi chế độ độc tài chấm dứt...

14/07/201200:00:00(Xem: 11374)
Ngày chế độ độc tài toàn trị chấm dứt, bối cảnh Việt Nam sẽ khác hẳn những gì đã xảy ra vào tháng 04/1975. Ở ngày đó, dù sự thay đổi đến từ đâu, và do ai, chắc chắn sẽ KHÔNG thể có "chính sách trả thù" và những "trại cải tạo". Tình trạng độc quyền thay thế vị trí lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) cũng sẽ KHÔNG thể xảy ra. Khi độc tài không còn nữa, Tự do sẽ bùng nở, và Dân chủ sẽ từng bước được phát triển. Việt Nam sẽ có một thể chế dân chủ pháp quyền. Song thay đổi lớn đó sẽ không xảy ra một cách dễ dàng, hoặc không điều kiện.

Khi đất nước hết độc tài, nền dân chủ non trẻ sẽ khởi đầu với vô số trở ngại không thể tránh khỏi của buổi giao thời. Hoàn cảnh của chính phủ lâm thời, và ngay cả chính phủ dân cử chính thức sau đó, chắc chắn sẽ rất khó khăn. Ổn định tình hình trong khi xã hội đầy tâm lý nôn nóng là một áp lực vô cùng to lớn. Nhưng chính phủ mới sẽ phải bắt đầu bằng những gì có được -- tương tự như hoàn cảnh các nước vừa thoát khỏi chế độ độc tài trên thế giới.

Công việc đầu tiên là nỗ lực xây dựng thế hòa giải và đoàn kết dân tộc. Những người lãnh đạo mới phải có bản lãnh dung hoà được dị biệt giữa các thế lực chính trị bản xứ, và những ảnh hưởng chi phối bởi ngoại bang. Với khát vọng vươn lên đã được ươm mầm từ nhiều năm qua, hy vọng là các thành phần trí thức và công dân yêu nước sẽ hậu thuẫn chính quyền mới có được những chính sách đối nội và đối ngoại thích hợp với bối cảnh mới của đất nước.

Kế đến là xây dựng, củng cố và phát triển Dân Chủ như thế nào để thích hợp với văn hoá và hoàn cảnh đặc thù của nước ta. Trong thế giới liên lập ngày nay, nền chính trị của một quốc gia luôn có nhiều liên hệ sâu rộng với cộng đồng thế giới bên ngoài. Mặt khác, tuy cuộc chiến tranh lạnh đã chấm dứt song Việt Nam vẫn là một yếu tố trong nhu cầu cân bằng và phát triển quyền lực của các siêu cường. Do vậy, làm sao để đất nước có thể phát triển mà không bị lệ thuộc một cách bất lợi vào bất cứ thế lực quốc tế nào... là một thử thách đầy cam go; đòi hỏi sự linh động, cân bằng hiệu quả giữa nhu cầu đối ngoại và tinh thần dân tộc tự quyết. Nếu không muốn nền dân chủ mới sẽ bị lai căng, què quặt, người Việt không có sự chọn lựa nào hơn là phải dám đứng thẳng trên đôi chân của mình, và cùng đưa vai gánh vác lấy trách nhiệm với quốc gia.

Thách đố to lớn khác là giải quyết là những hậu quả để lại từ tình trạng độc đảng, tham ô và bất công. Tháo gỡ các quốc nạn tồn đọng cần có nhiều thời gian và biện pháp, nhưng khả năng ban đầu của chính phủ mới chắc chắn còn nhiều giới hạn. Tài nguyên quốc gia vận dụng được cho việc ổn định kinh tế lúc đó có thể sẽ không có nhiều. Việc hàng ngũ hoá nhân tài của đất nước cũng sẽ lắm nhiêu khê. Do vậy, chính phủ dân chủ đầu tiên sẽ phải chứng tỏ một thiện chí, bản lãnh và khả năng lãnh đạo vượt bực, bao gồm việc huy động được sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ giới trí thức, doanh nhân và các tầng lớp xã hội. Tiến trình đó sẽ tốt đẹp hơn quá trình lột xác của các nước Đông Nam Á, Đông Âu, Bắc Phi và Trung Đông... hay không, câu trả lời tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố.

Công cuộc dân chủ hoá và phát triển đất nước sẽ đầy dẫy cam go song đó là một tiến trình khả thi.

Chúng ta có quyền tin tưởng mãnh liệt vào điều đó vì chế độ độc tài đương quyền đang mất dần khả năng tồn tại. Từ nhiều năm qua, đảng CSVN là một trở ngại to lớn cho sự phát triển của đất nước. Lý tưởng, kỷ luật và kiểm soát là ba yếu tố sinh tồn của CSVN, hiện đang bị hư hoại và lung lay tận gốc rễ. Cùng lúc đó, tình trạng khủng hoảng kinh tế, xã hội, chính trị và hệ thống lãnh đạo của đảng cầm quyền sẽ là chất liệu tự huỷ diệt khả năng tồn tại còn lại của chế độ. Sự tồn vong của hậu thân đảng CSVN trong tương lai tuỳ thuộc vào thái độ thành khẩn của những người cầm quyền hiện nay. Đối với chúng ta, vấn đề khẩn thiết là chuẩn bị như thế nào để giai đoạn giao thời đó sẽ không phải là một trang sử đau thương nhuộm đầy máu và nước mắt. Cách giải quyết của người quốc gia phải được đặt trên nền tảng của tinh thần nhân bản.

Khi đất nước hết độc tài, toàn dân sẽ có tự do. Ngày chiến thắng đó sẽ là thành quả chung của mọi thành phần dân tộc, kể cả những người vì hoàn cảnh lịch sử, đã từng có một thời góp phần gây ra những thảm trạng cho dân tộc. Khi đất nước có Dân Chủ, mọi công dân Việt Nam đều có cơ hội thụ hưởng nhân quyền một cách đúng nghĩa và trọn vẹn, kể cả những người đã từng là đảng viên CSVN. Chính phủ mới sẽ không thể trừng trị những người đã từng phục vụ cho chế độ cũ chỉ vì yếu tố quá khứ. Nhưng thiểu số có trọng tội với đất nước, đồng bào phải cần được luật pháp xét xử công minh và lịch sử ghi lại rõ ràng để làm gương cho hậu thế, dù còn sống hay đã chết -- không phân biệt là phục vụ cho chế độ Cộng sản hay Cộng hoà ngày trước.

Với hoàn cảnh chung hiện nay, hoạt động của các phong trào quần chúng rất quan trọng. Tuy nhiên, hoạt động của các đoàn thể đấu tranh đóng một vai trò không thể thiếu. Ở hiện tại, tuy phần lớn hoạt động của các tổ chức phải giữ trong vòng bí mật, song đều chủ động thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình dân chủ hoá đất nước. Trong chiều hướng đó, chắc chắn sẽ có một tổ chức đạt được thành công sau cùng. Đó là một vinh dự lịch sử nhưng dù vậy, sẽ không phải, và không thể, là điều kiện để có thể độc quyền thay thế đảng CSVN trong vai trò lãnh đạo đất nước.

Khi Việt Nam có dân chủ, một chính phủ đa đảng sẽ là kết quả tất nhiên qua cuộc Tổng Tuyển Cử Tự Do. Nói cách khác, dù tổ chức nào thành công trong cuộc đấu tranh dân chủ hoá Việt Nam, các tổ chức, chính đảng ở trong và ngoài nước cũng sẽ có cơ hội đồng đều để ganh đua phụng sự đất nước và đồng bào trong các vai trò dân cử.

Việt Nam cần có một chính phủ thực sự đáp ứng được nguyện vọng nhân dân và nhu cầu ổn định, phát triển của đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, vượt thắng được trước những cạnh tranh khốc liệt trên thị trường sẽ không phải là điều đơn giản. Xây dựng được uy thế trên chính trường quốc tế cũng sẽ lắm cam go. Nhưng thực tế thế giới cho thấy, nước nào không bị phân hoá nội bộ, có một chính phủ tốt và thực sự thương nước thương dân, thì nước đó vẫn có khả năng và điều kiện để đứng vững trước các thử thách lớn của thời đại.

Nước Việt Nam mới có tốt đẹp như kỳ vọng của nhiều người hay không là tuỳ thuộc vào quyết tâm cách mạng hoá xã hội của toàn dân, và của những người lãnh đạo đất nước ở giai đoạn giao thời đó. Đó là một tiến trình tự nhiên và cần thiết để xem người Việt có đủ bản lãnh và xứng đáng để thụ hưởng một đời sống tự do, dân chủ đích thực.

Một nước Việt Nam dân chủ, tự do tuy chưa ở trong tầm tay song đã ở trong tầm mắt của chúng ta. Khoảng cách đó không tự nhiên mất đi mà cần phải được rút ngắn bằng chính những nỗ lực dấn thân và hy sinh đồng loạt của nhiều người. Ngày nào những người yêu nước thật sự biết quên mình để cùng lo việc chung, thì ngày đó tương lai Việt Nam sẽ ở trong tầm tay.

Lâm Thế Nguyên (ĐVDVN)
www.vidan.info

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.