Hôm nay,  

Quả Bom LIBOR

15/08/201200:00:00(Xem: 24071)
Tai tiếng về gian lận lãi suất liên ngân hàng LIBOR

“Quả bom” LIBOR, đó là cụm từ báo chí dùng để nói về vụ tai tiếng tài chính đang bao phủ lên hàng chục tập đoàn ngân hàng thế giới. Gian lận trong việc niêm yết lãi suất có lợi cho các ngân hàng nhưng gây nhiều thiệt hại cho hàng triệu người phải đi vay tín dụng. Bốn năm sau khi bị phanh phui, lần này mọi chuyện xuất phát từ kinh đô tài chính châu Âu: Luân Đôn.

Tai tiếng thao túng lãi suất liên ngân hàng là bằng chứng cụ thể cho thấy thị trường tài chính thế giới kể từ sau cơn bão 2008 tới nay vẫn chưa được cải thiện. Các hoạt động tài chính vẫn rất mờ ám và dựa trên sự gian dối của giới ngân hàng.

Đầu tháng 7/2012 thống đốc ngân hàng Anh Barclays, Bob Diamond và tổng giám đốc Jerry del Missier đã phải từ chức sau khi nhìn nhận tập đoàn này thao túng công cụ đo lường các hoạt động tài chính là lãi suất liên ngân hàng LIBOR, trong thời gian từ 2005 đến 2009.

Barclays đồng ý xin nộp phạt 453 triệu đô la để thoát khỏi búa rìu pháp lý của Anh Quốc và Hoa Kỳ. Nhưng dù nộp phạt ban lãnh đạo của Barclays vẫn không khỏi bị truy tố về hình sự. Nhiều ngân hàng lớn khác của thế giới cũng đang trong tầm ngắm của tư pháp. Các tập đoàn Royal Bank of Scotland, Lloyds Bank của Anh, Deutsche Bank của Đức, Bank of America hay CitiGroup của Hoa Kỳ cũng đang bị điều tra. Riêng đối với Pháp, hiện có hai tập đoàn ngân hàng là Société Générale và Crédit Agricole bị tình nghi có tham dự vào vụ tài tiếng tài chính được gọi là vụ “Liborgate” qua lãi suất liên ngân hàng của châu Âu mang tên Euribor Tại châu Á thì nhiều ngân hàng nhật bị dính líu đến xì-căng-đan TIBOR.

Tại Hoa Kỳ bộ trưởng Tài chính Timothy Geithner bị Quốc hội gọi ra điều trần vì với tư cách Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ New York trước khi tham gia thành phần chính phủ.

Vào tháng 5 2008 nhật báo kinh doanh The Wall Street Journal tại Hoa Kỳ tung ra một kết quả nghiên cứu theo đó một số ngân hàng quốc tế đã có hành vi gian lận khi đề nghị những lãi suất thấp hơn thực tế trên thị trường giao dịch ngoại tệ. Nhưng khi ấy, Hiệp hội Ngân hàng Anh quốc khẳng định rằng dù ở vào hoàn cảnh khủng hoảng tài chính, hệ thống lãi suất gọi là LIBOR vẫn đáng tin vậy. Chẳng những thế, nhiều cơ quan hữu trách về thanh tra ngân hàng cũng phản bác tài liệu nghiên cứu của tờ The Wall Street Journal, rằng các ngân hàng không có gian lận trong việc niêm yết lãi suất này.

Bốn năm sau, khi tình hình kinh tế vẫn chưa sáng sủa và còn bị nhồi vào vụ khủng hoảng của đồng Euro thì lại nổ ra một vụ tai tiếng khác. Trước tiên là việc ngân hàng Barclays của Anh bị các cơ quan hữu trách của Anh, Mỹ phạt gần 400 triệu đô la về tội gian lận các lãi suất khai báo, gọi là LIBOR và Euribor. Sau đó, hàng loạt ngân hàng quốc tế đã bị điều tra tại Mỹ, Anh và Nhật.

Lãi suất LIBOR là gì các ngân hàng đã thao túng công cụ tài chính này ra sao để chuộc lợi? Chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa lần lượt trả lời các câu hỏi trên.

RFI: Thân chào anh Nguyễn Xuân Nghĩa tai tiếng tài chính đang nổi cộm lên từ đầu mùa hè năm nay cụ thể là như thế nào ?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Đây là một hồ sơ khá chuyên môn nên tôi xin phép phải đi từng bước.

- Trước hết, trên các thị trường đầu tư tài chính, người ta phát minh ra nhiều khí cụ đầu tư tinh vi qua việc mua bán lời hứa trong tương lai, như sẽ mua một tờ giấy nợ hoặc một số ngoại tệ trị giá ngần này tiền trong một kỳ hạn nhất định nào đó. Đến thời hạn mà phân lời của giấy nợ hay hối suất của ngoại tệ lại cao hơn hay thấp hơn dự tính thì người đầu tư có thể lời lớn và đối tác ở đầu bên kia thì lỗ nặng. Nôm na thì ta có thể nghĩ đến việc đánh cá, đánh cược về những gì sẽ xảy ra sau này, như phân lời trái phiếu, lãi suất tín dụng hay hối suất hoặc tỷ giá ngoại tệ.

- Chức năng của loại hình đầu tư đó là san sẻ và giảm thiểu rủi ro trên thị trường và thực tế đó là đầu cơ, tức là đầu tư với mức lời cao mà rủi ro lớn. Khối lượng giao dịch trong thị trường đầu tư loại này thực tế đã lên tới mấy trăm ngàn tỷ đô la chứ không ít nên cũng thu hút các ngân hàng tham gia để kiếm lời hoặc phòng ngừa rủi ro trong đầu tư theo kiểu đóng chốt ở cả hai đầu. Trong thị trường đầu tư rắc rối ấy, có loại "biến phiếu" hay "dérivatifs" là các khí cụ đầu tư mà giá trị biến thái từ một thông số chưa biết trước như lãi suất hay hối suất chẳng hạn.

- Năm 1984, các ngân hàng của Anh quốc mới thấy nhu cầu là nên tiêu chuẩn hóa cách tính lãi suất trên một cơ sở tương đối thống nhất vì điều ấy có lợi cho sự giao dịch trong nghiệp vụ đầu tư. Từ những nỗ lực đó, và có phối hợp với Ngân hàng Trung ương Anh quốc, người ta tiến tới việc thiết lập hệ thống lãi suất gọi là LIBOR, là viết tắt từ Lãi suất Liên ngân hàng Anh quốc.

RFI: Như anh vừa trình bày thì đây là một sáng kiến của các ngân hàng tư nhân Anh Quốc và có tham khảo với Ngân hàng Trung ương của Nhà nước Anh, chứ không là một quyết định của chính quyền?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa là trong nền kinh tế tự do, các hiệp hội tư doanh có thể định ra những quy ước giao dịch miễn là minh bạch và bình đẳng mà những người tham gia cùng chấp nhận. Chính quyền có nhiệm vụ tìm hiểu và xác định giá trị của các quy ước này rồi kiểm soát sự thi hành để bảo vệ quyền lợi của công chúng và sự ổn định của thị trường, chứ không nhất thiết là cơ chế duy nhất có quyền ban hành quy ước sinh hoạt của thị trường.

- Trở lại chuyện lãi suất LIBOR thì đấy là tác phẩm của Hiệp hội Ngân hàng Anh. Hiệp hội là một tổ chức có uy tín được thành lập từ năm 1919 và nay có thành viên là 250 ngân hàng Anh hoạt động tại gần 200 quốc gia trên thế giới. Sau hai năm thử nghiệm thì từ đầu năm 1986 hiệp hội này lập ra hệ thống lãi suất LIBOR.

- Nói cho dễ hiểu thì đây là lãi suất nền tảng mà các ngân hàng dùng để tính như phí tổn cơ bản của nghiệp vụ tài trợ. Trên nguyên tắc thì mỗi ngày, hiệp hội tính ra các lãi suất của 10 loại ngoại tệ thông dụng cho 15 hạn kỳ đi vay từ ngắn nhất là qua đêm đến dài nhất là một năm, rồi đúng 11 giờ rưỡi giờ London gửi qua cho hãng tin Thomson Reuters phổ biến cho thế giới.

- Căn cứ trên lãi suất chuẩn này, các ngân hàng trên thế giới mới tính ra lãi suất cho các nghiệp vụ tài trợ khác. Nghĩa là Lãi suất LBOR trở thành tiêu chuẩn tham chiếu cho các thị trường tài chính và xuất xứ của các loại lãi suất hay phân lời của các nước. Đó là một thước đo cho tính toán kinh doanh và chi phối rất mạnh thị trường đầu tư "biến phiếu" như chúng ta vừa nói hồi nãy.

RFI: Bây giờ thì người ta mới thấy rằng cái thước đo ấy không đáng tin. Vì sao từ tháng 5/2008 tờ Wall Street Journal bên Mỹ đã nghiên cứu và nêu vấn đề về sự thiểu khả tín này, mãi đến bây giờ câu chuyện mới bùng nổ?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Ta bước qua phần chi tiết kỹ thuật của cách tính này thì mới hiểu ra sự thể là tại sao:

- Hàng ngày, 16 ngân hàng tại Luân Đôn, trong đó có cả ngân hàng của Mỹ, thông báo cho Thomson Reuters biết rằng đây là lãi suất mà họ trù tính sẽ trả cho các nghiệp vụ đi vay, từ loại ngắn hạn trong ngày cho đến loại một năm. Thomson Reuters bèn công bố bốn lãi suất thấp nhất và bốn lãi suất cao nhất của nhóm ngân hàng này và số trung bình của tám lãi suất còn lại. Con số trung bình ấy được dùng làm chuẩn để tính ra cỡ 150 thứ lãi suất khác nhau của các thị trường thế giới. Chi tiết nên chú ý ở đây là lãi suất được thông báo chỉ là tiền lời mà ngân hàng trù tính sẽ trả chứ không là tiền lời thực tế đã trả. Nói cách khác, đây chỉ là dự tính hoặc ước tính mà thôi.

- Trong mấy chục năm liền, lối tính đó thường thì khá gần với thực tế nên được mọi nơi, kể cả chính quyền, chấp nhận để tính ra tiền lời của mình, thí dụ như phân lời công khố phiếu. Nhưng đôi khi lối ước tính ấy chỉ là ước đoán hay thậm là dàn xếp và dàn xếp với gian ý.

- Chuyện "đôi khi" này xảy ra trong vụ khủng hoảng tài chính năm 2008. Khi ấy, thế giới lo sợ nạn ách tắc tín dụng và cạn kiệt thanh khoản và thị trường liên ngân hàng thực tế bị đông lạnh vì các ngân hàng hết dám vay nhau dù với bất cứ lãi suất nào. Như vậy thì làm gì có lãi suất nền? Con số đưa ra chỉ là hư cấu mà vẫn được công bố như thường vì nếu không có một cái kim chi nam thì người ta biết là nên chạy theo hướng nào?

- Thực tế thì nhiều ngân hàng đưa ra lãi suất thấp để chứng tỏ tình hình kinh doanh của họ vẫn còn khả quan. Có ngân hàng lại đưa ra lãi suất cao, có thể vì nghĩ đến việc khai thuế thấp hơn sau này. Hiệp hội Ngân hàng Anh không thể không biết về sự thể ấy.

RFI: Thế các ngân hàng trung ương hay cơ quan hữu trách Anh hay Mỹ có biết điều ấy không?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Bây giờ mà nhìn lại thì người ta thấy các cơ quan hữu trách tại Anh và Mỹ đều có biết cả.

- Năm đó, chính Hiệp hội Ngân hàng Anh có thông báo cho cơ quan Thanh tra Tài chính Anh rằng họ gặp vấn đề trong việc ấn định lãi suất. Tổng trưởng Tài chính Mỹ ngày nay là ông Geithner khi ấy là Chủ tịch Ngân hàng Liên bang New York với trách nhiệm kiểm tra các ngân hàng Mỹ tại Wall Street hiển nhiên là cũng biết vì đã gửi thư cho cơ quan Thanh tra Tài chính Anh với đề nghị cải tiến cách tính lãi suất này.

- Bây giờ thì mọi người cứ làm như bị bất ngờ chứ khi đó các định chế có thẩm quyền như Quỹ Tiền tệ Quốc tế FMI hay Ngân hàng Thanh toán Quốc tế BIS còn phản bác kết quả nghiên cứu của tờ The Wall Street Journal và nói rằng cách tính lãi suất LIBOR vẫn là thích hợp.

- Chúng ta không quên rằng năm 2008, cả thế giới đang bị một trận bão tài chính, nếu giới hữu trách có tri hô rằng nơi kia bị sạt lở chỉ gây thêm hốt hoảng cho thị trường nên có lẽ mọi người đều nín thinh. Ngày nay, mọi người đùng đùng đổ lỗi cho nhau và các chính khách lại có cơ hội đàn hặc hay can thiệp để chứng tỏ là họ ưu lo cho dân chúng. Tôi nghĩ rằng đây là một hài kịch phi lý.

RFI: Anh vừa đưa ra một nhận xét với nhiều nghịch lý. Thứ nhất, việc ước tính lãi suất ấy có sự mờ ám; thứ hai, các cơ quan có trách nhiệm kiểm tra có biết mà không làm gì; thứ ba là bây giờ người ta mới tri hô, đổ lỗi và điều tra. Thế là thế nào?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Trước hết là về nguyên tắc thì các thị trường cần có một chỉ số hay dấu mốc tài chính làm cơ sở cho những tính toán về đầu tư hay tài trợ. Thứ hai là về phương pháp thì chỉ số hay lãi suất đó phải xuất phát từ các ngân hàng là tác nhân của hoạt động tài chính trên thị trường, chứ không thể là từ một định chế tài chính trung ương nào đó của thế giới nằm bên ngoài thị trường. Thứ ba, về thủ tục ước tính ra lãi suất đó thì người ta cần có sự minh bạch, là điều thực tế không hề có trong cách tìm ra lãi suất LIBOR, và đấy mới là vấn đề.

- Sở dĩ như vậy, và đây là chuyện đáng quan tâm nhất khi ta nghĩ đến giải pháp cải thiện, là vì các ngân hàng hay giới điều hành ở trên cùng rất khó tìm ra con số thật trong hoàn cảnh hỗn mang của một vụ khủng hoảng thời 2008. Và càng khó cấp bách chọn ra một con số có thể làm cơ sở tài chính của họ bị sạt nghiệp và chính họ bị mất việc. Vì thế, trong khung cảnh thiếu minh bạch của thủ tục tính toán và đầy biến động của thị trường, người ta rất dễ gặp cái nạn dàn xếp với gian ý.

RFI: Làm sao cơ quan hữu trách của các nước và trước tiên là các ngân hàng có thể cải cách hệ thống này?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Yếu tố then chốt ở đây là sự minh bạch rõ ràng để mọi người cùng có thông tin như nhau để mà tính toán một cách bình đẳng hầu không một ai, người đi vay hoặc người cho vay chẳng hạn, lại thủ lợi bất chính.

- Thứ nhì, khi tính toán như vậy, người ta phải nghĩ đến trường hợp thực tế là giữa cơn khủng hoảng thì thà rằng có một con số mơ hồ thiếu chính xác còn hơn là chẳng có một chỉ số nào cả. Nghĩa là trong cơn bão tố người ta vẫn cần một cái neo. Nhưng làm sao đảm bảo rằng cái neo đó không cứu riêng một ngân hàng mà nhận chìm những người khác xuống nước?

- Các định chế có trách nhiệm sẽ phải tìm ra giải pháp thực tế cho nhu cầu này. Nhưng điều tai hại nhất là khi họ lại nhân đó mà chăng thêm một tấm lưới cứng ngắc trói buộc tất cả các ngân hàng vào với nhau. Nghĩa là nhà nước lại can thiệp và bó chặt thị trường.

- Vấn đề căn bản là phải có hệ thống pháp quyền và luật lệ minh bạch và bình đẳng cho mọi người trong cuộc, với những quy định rõ ràng về các biện pháp chế tài hay trừng phạt khi có vi phạm. Đây là một nhu cầu rất phức tạp và căn bản của viêc định ra luật chơi rõ ràng. Chứ có truy tố hay trừng phạt một vài ngân hàng mà chưa cải cách được thủ tục và phương pháp thì vẫn chẳng giải quyết được vấn đề.

RFI: Xin cảm ơn anh Nghĩa và xin hẹn lại anh tuần tới.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngược lại, những biến cố dồn dập đủ loại trong COVID-19 mở ra cuộc đấu tranh chính trị mới: đòi quyền được sống còn, có thuốc trị cho tất cả, đi lại an toàn, đó là một cái gì thiết thực trong đời sống hằng ngày và không còn chờ đợi được chính quyền ban phát ân huệ; nó khiến cho người dân có ý thức là trong các vấn đề nội chính, cải tổ chế độ là cần ưu tiên giải quyết. Người dân không còn muốn thấy vết nhơ của Đồng Tâm hay tiếp tục qùy lạy van xin, thì không còn cách nào khác hơn là phải có ý thức phản tỉnh để so sánh về các giá trị tự do cơ bản này và hành động trong gạn lọc. Tình hình chung trong việc chống dịch là bi quan và triển vọng phục hồi còn đấy bất trắc. Nhưng đó là một khởi đầu cho các nỗ lực kế tiếp. Trong lâu dài, dân chủ hoá là xu thế mà Việt Nam không thể tránh khỏi. Cải cách định chế chính trị và đào tạo cho con người để thích nghi không là một ý thức riêng cho những người quan tâm chính sự mà là của toàn dân muốn bảo vệ sức khoẻ, công ăn việc làm
Trong vài thập niên vừa qua, giải Nobel Hòa Bình và Văn Chương được xem là một tuyên ngôn của ủy ban giải Nobel về các vấn đề thời cuộc quan trọng trong (những) năm trước và năm 2021 này cũng không là ngoại lệ. Giải Nobel Văn Chương năm nay được trao cho nhà văn lưu vong gốc Tazania - một quốc gia Châu Phi, là Abdulrazak Gurnah "vì sự thẩm thấu kiên định và bác ái của ông đối với những ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân và số phận của những người tị nạn trong vực sâu ngăn cách giữa các nền văn hóa và lục địa". Cũng vậy, giải Nobel Hoà Bình đã dành cho hai ký giả Maria Ressa của Phi Luật Tân và Dmitry Muratov của Nga "vì những nỗ lực bảo vệ sự tự do ngôn luận, vốn là điều kiện tiên quyết cho nền dân chủ và sự hòa bình lâu dài". Ủy ban Nobel Hòa Bình Na Uy còn nói thêm rằng, "họ đại diện cho tất cả các ký giả đang tranh đấu cho lý tưởng này, trong một thế giới mà nền dân chủ và tự do báo chí đang đối mặt với những điều kiện ngày càng bất lợi" và cho "nền báo chí tự do, độc lập
Sau đó, sau khi “phát khóc” và lau nước mắt/nước mũi xong, bác Hồ liền thỉnh ngay bác Lê về thờ nên mới có Suối Lê Nin (với Núi Các Mác) cùng hình ảnh – cũng như tượng đài – của cả hai ông trưng bầy khắp mọi nơi, để lập ra một tôn giáo mới, thay thế cho Phật/Chúa/Thánh Thần/Ông Bà/Tiên Tổ ... các thứ.
Sự nghiệp chính trị của đại đế Nã-Phá-Luân chẳng liên hệ gì nhiều đến Trung Quốc nên không biết tại sao ông nổi hứng tuyên bố một câu bất hủ mà giờ này có giá trị của một lời tiên tri “Hãy để Trung Hoa ngủ yên bởi vì khi tỉnh giấc nó sẽ làm rung chuyển thế giới.” Vào tháng 03/1978 có một sự kiện ít được biết đến nhưng bắt đầu lay thức gã khổng lồ Trung Quốc khi một hợp tác xã nông nghiệp ở Phúc Kiến xin phép được giữ lại phần sản xuất vượt chỉ tiêu để khuyến khích nông dân hăng hái làm việc. Đây là giai đoạn trước Đổi Mới nên viên thư ký đảng bộ của hợp tác xã bị phê bình kiểm điểm. Chỉ 8 tháng sau đó vào cuối năm 1978 Đặng Tiểu Bình tuyên bố cải tổ và mở cửa nền kinh tế. Đề nghị nói trên của hợp tác xã được mang ra thử nghiệm với kết quả sáng chói nên viên thư ký đảng được ban khen.
Sau 10 năm ra sức Xây dựng, chỉnh đốn hàng ngũ để bảo vệ đảng không tan, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn thừa nhận: ”Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách căn bản, thậm chí có mặt còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn, có thể gây ra những hậu quả khôn lường.”
Nếu mối quan hệ Trung Quốc-Hoa Kỳ là một ván bài, thì người Mỹ sẽ nhận ra rằng họ đã được một lá bài tốt và tránh khuất phục trước nỗi sợ hãi hay niềm tin vào sự suy tàn của Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả một lá bài tốt cũng có thể thua, nếu chơi tệ. Khi chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden thực hiện chiến lược cạnh tranh đại cường với Trung Quốc, các nhà phân tích tìm các phép ẩn dụ trong lịch sử để giải thích tình trạng cạnh tranh ngày càng sâu sắc. Nhưng trong khi nhiều người dựa vào sự khởi đầu của Chiến tranh Lạnh, thì một ẩn dụ lịch sử đáng lo ngại hơn là sự bắt đầu của Thế chiến thứ nhất. Năm 1914, tất cả các cường quốc đều mong rằng cuộc chiến Balkan lần thứ ba là ngắn ngủi. Thay vào đó, như nhà sử học người Anh Christopher Clark đã chỉ ra rằng, các cường quốc bị mộng du bước vào một trận đại chiến kéo dài bốn năm, phá hủy bốn đế chế và giết chết hàng triệu người.
“Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân chúng ta và cho cả hành tinh này là lật ngược lại toàn bộ suy nghĩ ấy. Pema Chodron đã chỉ cho chúng ta thấy mặt cấp tiến của đạo Phật.”
Năm 1964, anh Phạm Công Thiện được mời vào Sài Gòn để dạy triết Tây tại Viện cao đẳng Phật học vừa được mở tại chùa Pháp Hội (tiền thân của Viện Đại học Vạn Hạnh sau này), tôi được anh cho đi theo. Tôi nhớ anh đã dẫn tôi đến thăm Bùi Giáng vào một buổi chiều, trong một căn nhà ở hẻm Trương Minh Giảng, căn nhà rất ẩm thấp, chật hẹp, gần như không có chỗ cho khách ngồi.
Cố nhớ kỹ lại, tôi vẫn không nghĩ ra là tôi đã gặp thầy Phước An lần đầu vào dịp nào (dĩ nhiên là ở Vạn Hạnh, trong năm 1972, nhưng trong hoàn cảnh nào?). Chỉ nhớ rằng quen nhiều và thân với thầy lắm. Phòng 317 Nội Xá Vạn Hạnh là phòng ở của quý thầy trẻ, là những người tôi rất thân, và đây là một phòng mà tôi có thể ra vào bất cứ lúc nào.
Ba bà Mai kể trên thuộc hai thế hệ. Cả ba đều đã trải qua một kiếp nhân sinh mà “phẩm giá” người dân bị chà đạp một cách rất tự nhiên.” Nếu may mắn mà “CNXH có thể hoàn thiện ở Việt Nam” vào cuối thế kỷ này, như kỳ vọng của ông TBT Nguyễn Phú Trọng, chả hiểu sẽ cần thêm bao nhiêu bà Mai phải (tiếp tục) sống “với tâm thức khốn cùng” như thế nữa?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.