Hôm nay,  

Những Điều Tôi Học Được Từ Phạm Tất Hanh

9/16/201200:00:00(View: 10726)
Bạn Hanh thua tôi đến 6-7 tuổi, nghề nghiệp chuyên môn cũng khác với tôi. Nhưng trong suốt hơn 30 năm quen biết gần gũi sát cánh với Hanh, tôi đã có cái duyên may mắn được tiếp nhận từ nơi Hanh rất nhiều điều thật tốt đẹp quý báu. Nay nhân dịp Lễ Giỗ Đầu của Hanh vào cuối năm 2012 này, tôi xin ghi lại một số kỷ niệm tuyệt vời mà tôi có được với người anh em rất mực thân thương yêu quý đó.

I – Sơ lược về mối thân tình của Hanh và tôi.

Trước năm 1975, thì tôi ít có dịp trao đổi gặp gỡ thân tình với Hanh. Nhưng qua việc sinh họat với Phong trào Thanh Lao Công, Hanh cũng đã có lần tới tham gia công tác với anh chị em chúng tôi trong khuôn khổ của Chương trình Phát triển Cộng đồng tại các Quận 6, 7 & 8 Saigon vào thời kỳ những năm 1966-1971. Thành ra Hanh biết nhiều về công chuyện tôi làm trong giai đọan này, trong khi tôi thì lại thường có liên hệ với một số anh chị em khác trong Phong trào Thanh Lao Công mà thôi.

Bắt đầu từ năm 1980 – 81, sau khi Hanh đi tù “cải tạo” về thì sinh sống với gia đình tại khu Dốc Mơ Gia Kiệm, và chúng tôi thường gặp gỡ sát cánh với nhau trong một số sinh họat với các bạn trẻ tại địa phương miệt đồng quê Long Khánh này. Hồi đó, Hanh chuyên dậy môn Anh văn cho các học sinh trong vùng và nhờ sự tận tâm chỉ bảo hướng dẫn cho giới trẻ, nên thầy giáo Hanh được các học sinh và phụ huynh rất quý mến.

Từ năm 1988, tôi thường hướng dẫn đòan bác sĩ, nha sĩ và y tá ở Saigon tình nguyện đi lên khám bệnh phát thuốc cho bà con người dân tộc thiểu số tại khu vực Túc Trưng Định Quán. Trong công tác này, thầy giáo Hanh đã vận động các bạn trẻ ở Gia Kiệm tham gia tiếp sức rất tận tình với phái đòan y tế chúng tôi. Anh cũng vận động với các vị tu sĩ và giáo dân ở địa phương yểm trợ cho đòan bằng cách cho các thành viên chia ra từng nhóm nhỏ 2 – 3 người đến tá túc qua đêm tại một số nhà của bà con. Và còn đãi cho đòan những bữa ăn trước và sau khi thực hiện công tác y tế. Rồi lần nào cũng vậy, bà con lại còn chu đáo tặng cả cho đòan khá nhiều những trái cây, hạt cà phê là thổ sản ở địa phương để làm quà mang về Saigon nữa.

Đến năm 1996, khi gia đình tôi qua định cư tại Mỹ, thì hai chúng tôi lại gặp nhau, anh em thật vui mừng phấn khởi với cuộc trùng phùng hội ngộ này. Và chúng tôi lại cùng nhau tham gia sinh họat vào mỗi sáng Chủ nhật trong Nhóm Gioan Tiền Hô của Phong trào Cursillo tại vùng Orange County. Đặc biệt Hanh lại hợp tác với các bạn trong tạp chí Diễn Đàn Giáo Dân với nhiệm vụ của một người Tổng thư ký tòa sọan.

Sau khi dậy học tại Mỹ một thời gian, Hanh vừa mới về nghỉ hưu, thì khám phá ra mình bị bệnh ung thư. Là người có niềm tin tôn giáo sâu sắc, Hanh tỏ ra rất bình tĩnh trong việc lo chữa bệnh theo chế độ chăm sóc y khoa hiện đại.

Nhưng sau cùng, thì Hanh đã về lại bên quê nhà để cho thân nhân chăm sóc cho đến khi lìa đời ở vào tuổi 70. Cũng như nhiều bà con, bạn hữu và các môn sinh của Hanh, anh chị em chúng tôi ở California tất cả trong Nhóm Diễn Đàn Giáo Dân và Liên Nhóm Gioan Tiền Hô đều thật lòng bùi ngùi thương tiếc người anh em rất mực quý mến trước hung tín này.

II – Những điều tôi học được từ Phạm Tất Hanh.

Quả thật, tôi học được ở Hanh rất nhiều điều thật quý báu, xin được tóm tắt như sau:

1 – Sự khiêm tốn, đơn sơ và đạo hạnh.

Hanh sống khiêm cung ẩn dật và đạo đức như một nhà tu hành. Anh không bao giờ tìm cách phô trương biểu lộ bất cứ sự hiểu biết thông thái gì trước công chúng, mà chỉ chú tâm sát cánh với bao nhiêu bạn hữu khác trong công việc thực hiện những điều có ích lợi thiết thực đối với nhân quần xã hội. Trong nhiều năm tháng sinh họat chung với Hanh, tôi chưa hề bao giờ thấy Hanh có lời lẽ nặng nề hay có cử chỉ khiếm nhã nào đối với bất kỳ một ai cả. Rõ ràng là Hanh luôn áp dụng theo lối xử thế của người xưa, đó là tuy có sự bất đồng giữa anh em bạn bè, nhưng không bao giờ lại vì thế mà đâm ra bất hòa với nhau cả : “Quân tử hòa nhi bất đồng” là như vậy đó.

Thái độ đơn sơ hòa nhã như thế đã làm cho Hanh được nhiều người tin tưởng mến chuộng. Và sự khiêm tốn trì chí nhẫn nại cũng đã giúp Hanh dễ dàng hội nhập vào với tập thể của số đông những anh chị em vốn có cùng một hòai bão và chí hướng cao đẹp như mình.

2 – Sự hy sinh tận tình với sự nghiệp dìu dắt thế hệ trẻ.

Có thể nói suốt cuộc đời họat động hăng say của Hanh là tập trung vào việc đào tạo cho lớp môn sinh trẻ tuổi của mình trở thành những con người công dân gương mẫu, người tín hữu thuần thành. Hanh nêu gương sáng cho các học sinh bằng chính cuộc sống lương hảo và tận tụy của mình – đúng như cha ông ta xưa nay vẫn thường nói là : “Dĩ Thân Nhi Giáo”, tức là đấng bậc làm thầy phải lấy chính bản thân, nhân cách của mình ra để mà khuyên bảo lôi cuốn môn sinh noi theo – hơn là chỉ dùng lời nói suông để kêu gọi học sinh phải làm thế này thế nọ - trong khi chính mình thì lại có những hành vi trái ngược với điều mình chỉ bảo dậy dỗ cho người khác.

Hanh chủ trương mở những lớp dậy nghề kỹ thuật chuyên môn và nhất là vận động các nhà hảo tâm góp phần xây dựng Quỹ Học Bổng Nguyễn Trường Tộ để trợ giúp cho các sinh viên học sinh thuộc gia đình đang gặp khó khăn eo hẹp về mặt kinh tế .

Đông đảo các môn sinh chắc chắn sẽ ghi lại đày đủ chi tiết hơn về những kỷ niệm tốt đẹp với vị thầy đã dày công chăm sóc hướng dẫn cho mình, nên tôi khỏi cần phải trình bày dài dòng hơn nữa trong bài viết này.

3 – Sự gắn bó với truyền thống gia phong gia đạo của mình.

Gia đình cha mẹ của Hanh đều xuất thân từ miền nông thôn trong tỉnh Ninh Bình thuộc vùng châu thổ sông Hồng ở ngòai Bắc và từ nhiều đời các bậc tổ tiên đã theo đạo Công giáo. Ông chú ruột cũng như người em trai của Hanh đều đi tu làm linh mục. Và hai cô em gái của Hanh cũng là nữ tu nữa. Bà con của Hanh phần đông đều định cư ở khu Dốc Mơ – Gia Kiệm là nơi có số đông người di cư Công giáo vào miền Nam từ năm 1954, nên nếp sống của người dân tại đây khá là hiền hòa, ngăn nắp với các nhà thờ, các tu viện được xây dựng san sát gần kề với nhau dọc theo quốc lộ 20 từ Biên Hòa đi Đà lạt, trải dài đến mấy chục cây số suốt từ Ngã Ba Dầu Giây đến tận chân đèo Bảo Lộc (Blao).

Trong nhiều năm sinh sống với gia đình tại khu định cư này, thầy giáo Hanh đã tận tâm hướng dẫn giới học sinh không những về môn Anh văn, mà còn đặc biệt về sinh họat đạo đức tâm linh theo tinh thần cởi mở thông thóang của Công đồng Vatican II kể từ giữa thập niên 1960. Có thể nói thầy giáo Hanh đã truyền lại cho lớp môn sinh cái ngọn lửa nhiệt thành của lòng đạo hạnh sâu sắc được thừa hưởng từ nhiều thế hệ ông bà cha mẹ của mình.

Vào những năm của thập niên 1980, chính tôi đã có nhiều dịp được tham dự những buổi sinh họat của giới trẻ tại đây do bạn Hanh hướng dẫn và tôi thật sự xúc động trước sự phấn khởi nô nức của hàng trăm các em thanh thiếu niên - trong các cuộc gặp gỡ trao đổi thân tình mà rất thắm đượm tinh thần hăng say với lý tưởng nhân bản và nhân ái của người tín đồ Thiên chúa giáo trong khu vực này.

Trên đây là mấy nét phác họa vắn tắt của tôi về những kỷ niệm thật đáng nhớ mà bạn Hanh đã để lại cho cá nhân mình. Tôi tin chắc số đông các bạn hữu của Hanh như bạn học ở Đà Nẵng, bạn cùng dậy học ở Quảng Ngãi, các bạn sĩ quan thuộc Trường Sinh ngữ Quân đội và nhất là các bạn trong Phong trào Thanh Lao Công ở Saigon, Phong trào Cursillo ở California v.v… cũng sẽ ghi lại các chứng từ thật là khả tín về nhân cách trong sáng và tấm lòng đạo hạnh đôn hậu của người bạn thật đáng quý mến này.

Dĩ nhiên là các thân nhân ruột thịt trong gia đình, các tu sĩ và giới chức trong các xứ đạo Công giáo ở Dốc Mơ Gia Kiệm – cũng như đông đảo các môn sinh đã từng được thầy giáo Hanh đào tạo hướng dẫn - thì mỗi người sẽ gợi lại những kỷ niệm tốt đẹp với thầy Hanh trong dịp Lễ Giỗ Đầu vào cuối năm Nhâm Thìn 2012 sắp đến.

Riêng bản thân mình, thì từ ngày có duyên may được gặp gỡ và sát cánh với Hanh trong nhiều năm tháng với công việc xã hội và văn hóa, tôi đã học hỏi được nhiều điều thật tốt đẹp quý báu như đã trình bày trên đây. Qua sự tiếp cận gần gũi với con người đạo hạnh khiêm tốn và hòa nhã này, tôi càng có thêm được sự tin tưởng vững chắc hơn vào đường hướng phục vụ xã hội mà mình cùng với các bạn đã từng theo đuổi từ nhiều năm nay.

Với bản lãnh của những người tín đồ thuần thành đạo hạnh và kiên trì như Antonio Phạm Tất Hanh, tôi vững tin rằng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam sẽ mãi mãi duy trì được một sức sống thánh thiện, tinh tuyền để có thể vượt qua được mọi thử thách gian lao sóng gió nguy hiểm hiện nay – cũng như cha ông của chúng ta đã từng đứng vững được qua bao nhiêu thời kỳ bách hại đẫm máu thuở xưa vậy./

San Clemente California, Mùa Trung Thu Nhâm Thìn 2012

JB Đoàn Thanh Liêm

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.