Hôm nay,  

Quán Việt Quanh Đại Học Berkeley

13/10/201200:00:00(Xem: 10028)
Tôi tốt nghiệp Đại học Berkeley năm 1983. Ba mươi năm qua, sau một thời gian làm việc ở nước ngoài, về lại Mỹ vẫn quanh quẩn bên ngôi trường mình đã chọn làm quê hương nên có nhiều kỉ niệm với nơi này, từ sinh hoạt sinh viên đến hàng quán.

Những cuối tuần có đấu bóng bầu dục tại Memorial Stadium, như cuối tuần vừa qua, phố xá rất tấp nập. Hàng quán đắt khách.

Thời xưa, sinh viên Việt đa số sống trong kí túc xá nên việc nấu nướng ít phải lo, thỉnh thoảng ghé vào La Vals uống bia, nhâm nhi pizza hay ăn ở Top Dog.

Top Dog nay vẫn còn nhưng La Vals thì không. Tiệm pizza dưới hầm này thời đó sinh viên Việt hay kéo vào sau những buổi văn nghệ và đã có lần đem đàn vào tiệm hát hò với nhau rất vui. Sau này La Vals đổi thành quán sushi, giờ lại bán pizza nhưng với thương hiệu Pepes.
buivanphu_20121010_quanviet_h01_heavenlyfoodtruck
Xe bán thức ăn Việt trước cổng Đại học Berkeley. (ảnh Bùi Văn Phú)
Phố Telegraph một thời được gọi là Phố Hippies nay không còn những tiệm photocopy, tiệm sách mà là nhiều cửa hàng ăn uống. Cuối thập niên 1970 Berkeley chưa có quán Việt. Bây giờ cả chục, rải rác quanh trường và dưới phố. Thức ăn Việt đã được nhiều người biết đến và thích.

Thời sinh viên của tôi muốn thức ăn Á Đông chỉ thấy cơm Tàu. Bên cổng phía bắc, ngày xưa có quán Dynasty. Hai món ở đây tôi thích là cold-cut chicken – gà hấp gừng chêm hành xanh, rưới xì dầu – và twice-cooked pork là món thịt heo thái to, mỏng xào với bắp cải. Mới qua Mỹ chưa lâu thì thích thịt gà là chuyện đương nhiên. Riêng món thịt heo, không biết xào nấu ra sao mà ăn thấy ngon lạ và không thấy nơi nào khác có món này. Ăn hai món cùng với cơm trắng, hai sinh viên chia nhau tốn 5 đô-la một người là khá đắt so với nếp sống đại học bấy giờ. Dynasty sau chuyển sang quán ăn Hàn và bây giờ là quán Mễ.

Đầu thập niên 1980 quán ăn Tầu không hiếm ở Berkeley. Dưới phố Shattuck và University có vài nhà hàng Hong Kong, Đài Loan.

Đối diện Dynasty là La Vals cửa bắc nay vẫn còn, nhưng rạp xi-nê bên cạnh và nhà sách đã dẹp, cửa hàng ăn mọc lên, trong đó có Phở Bar mới mở được hơn một năm. Lâu đời hơn có quán Camille gần đó cũng bán thức ăn Việt.
buivanphu_20121010_quanviet_h02_phobar
Phở Bar có trang trí nội thất rất mỹ thuật. (ảnh Bùi Văn Phú)
Phở Bar do hai phụ nữ Mỹ là Lauren và Jane làm chủ, đầu bếp là một chị người Việt. Hôm tôi ghé, chị nói nếu quen ăn phở bột ngọt sẽ thấy phở ở đây không ngon. “No MSG” ghi rõ ngoài cửa. Giá từ 8 đến 10 đô một tô. Tôi thích cách trang trí rất mỹ thuật của quán, cùng mầu xanh cây lá chung quanh. Vào giấc trưa, tuy đông người nhưng không gian quanh khu vực vẫn mang vẻ trầm lắng, không ồn ào như bên cửa nam.

Thời chiến tranh hai tiếng Việt Nam vang rền sân trường, nhưng khi tôi đến thành phố này định cư vào mùa hè 1975 thì không thấy có quán ăn Việt Nam nào. Khi vào trường, những lúc muốn thưởng thức món Việt sinh viên bọn tôi phải qua San Francisco, ở đó có Golden Turtle nổi tiếng với bún bò Huế, có nhà hàng Mai với nhiều món canh, xào. Xuống San Jose ăn Phở 13, con số không xui vì rất đông khách, hoặc ghé quán Petite Catina của nhạc sĩ Trần Quảng Nam uống cà-phê, nghe hát.

Đầu thập niên 1980 mới thấy có nhà hàng Việt ở Berkeley. Quán trên đường Số 6 có chủ là cựu sinh viên luật ở Sài Gòn. Tôi cùng mấy bạn ghé ăn vài lần vào những giờ gần đóng cửa và được chủ tiệm đón tiếp niềm nở, trò chuyện như người thân quen cho đến khuya. Lúc đó cũng có một quán Việt nữa nằm trên đường University, góc Bonar. Hai quán đều xa trường và chỉ mở được vài năm.
buivanphu_20121010_quanviet_h03_saigonexpress
Bánh mì kẹp thịt được sinh viên ưa thích vì ngon và rẻ. (ảnh Bùi Văn Phú)
Cuối thập niên 1980, khi tôi về lại Berkeley thấy hàng quán thức ăn Á đông khá nhiều, nhất là Thái, Nhật và Ấn Độ nhưng cũng chưa thấy có thức ăn Việt quanh trường.

Ít lâu sau Vietnam Village mở cửa trong ngõ đối diện với La Vals trên đường Durant. Đây là quán Việt đầu tiên ở quanh Đại học Berkeley mà tôi biết. Quán nằm trong khu ăn uống với đủ loại thức ăn từ Mễ, Hàn, Hoa đến Mỹ, Mã, Nhật… Vietnam Village không rộng lắm, bán phở và nhiều món cơm với đồ xào. Chủ quán là anh Thư, một thời có sinh hoạt thanh niên sinh viên vùng bắc California. Thời trước phở và các món ăn ở đây mang nhiều hương vị Việt, nay đã đổi chủ và có hương vị tầu hơn.

Cuối năm 1991 có quán Heavenly Healthy Foods mở ra dưới tầng trệt toà nhà MLK ngay trong trường. Quán bán bánh mì, gỏi cuốn, phở, cơm ăn nhanh. Chủ quán là chị Hiếu, một thuyền nhân đến Mỹ năm 1981.

Hai năm trước giá thuê tăng lên gấp đôi nên chị bỏ đi. Năm ngoái tôi ghé vào chỗ cũ, gặp quán phở Saigon Eats do người Mễ làm chủ. Bánh to, thịt bò được xào lên trước khi chan nước lèo. Lõng bõng mỡ. Không ngon. Quán Phở của chủ Mễ nay cũng đã đóng cửa.

Sau một thời gian tranh đấu vì không còn cơ sở làm ăn, kể từ tháng 3-2012 chị Hiếu được cấp giấy phép cho đậu xe thức ăn trước cổng trường. Vẫn bánh mì, gỏi cuốn, cơm. Không còn bán phở. Chị cho biết trước nay sinh viên thích nhất bánh mì vì giá chỉ 2 đô 99. Các món khác như cơm, bún, gỏi cuốn từ 3 đến 6 đô một phần, cạnh tranh với bánh mì Subway ngay bên kia đường, 5 đô một ổ dài 30 phân. Xe thức ăn của chị mở cửa từ 10 giờ sáng đến 6 giờ chiều. Nghỉ cuối tuần.
buivanphu_20121010_quanviet_h04_lecheval
Le Petite Cheval đông khách giờ cơm trưa. (ảnh Bùi Văn Phú)
Khi Berkeley nở rộ quán ăn, thức ăn Việt cũng theo đà bung lên. Sau Vietnam Village, Heavenly Foods, dưới downtown có Saigon Express bán bánh mì và các món ăn nhanh. Mười năm trước quán này do anh Hoà, người gốc Quảng Ngãi, làm chủ.

Gần đó có Le Régal trên đường Center, trong khu ăn uống với quán Nhật, Mễ, Mỹ, Ba Tư, Hy Lạp. Thức ăn ở đây ngon nhưng cao giá. Một dĩa bánh xèo 11 đô 95. Phở hay bún thịt nướng giá từ 7 đô 95.

Nhà hàng Le Cheval nổi tiếng ở Oakland nay cũng có tiệm ở Berkeley bán phở và nhiều món xào Việt, Tầu, Thái, Sing. Cơm hai món, giá bình dân 5 đô 95 xu. Le Petit Cheval mở cửa đã 13 năm và đông khách vào giờ trưa.

Sau có quán Saigon trên đường University và phở Hoà trên đường Shattuck gần rạp United Artists. Hai quán này không còn. Giờ có bò bảy món Ánh Hồng mở được vài năm. Gần đó là Little Saigon mới khai trương có món gỏi cá salmon trộn với ớt quả chuông, hạt điều lạ miệng.

Ngày nay hàng quán đều lên mạng và thực khách có trang yelp.com để phê bình. Nói chung ăn uống tùy theo khẩu vị mỗi người nên có những khác biệt về thẩm định ngon dở giữa người Việt và người ngoại quốc, giữa người của ba miền nước Việt và ngay cả giữa người Việt lớn lên trong nước mắm hay trong bơ sữa.

Hỏi ý kiến sinh viên về thức ăn Việt quanh trường, Yến Vũ mới tốt nghiệp khoa Pháp ngữ cho biết cô “thích quán Oriental với món cơm thịt heo. Giá phải chăng từ 6 đến 9 đô cho một phần ăn”. Nghĩa-Piotr Trọng Lê, sinh viên khoa kinh tế thì “thích nhất là bún thịt nướng ở đây”. Trong khi sinh viên năm thứ hai Diana Dương “ưa món mì bò kho, tuy giá hơi cao”. Quán Oriental của cô chú Hai mở cửa đã hơn hai mươi năm.
buivanphu_20121010_quanviet_h05_vietnamvillage
Vietnam Village là quán Việt cạnh trường lâu đời nhất. (ảnh Bùi Văn Phú)
Cựu sinh viên Yến Vũ còn “thích bánh mì Heavenly Foods và thịt nướng que khi bán hạ giá chỉ 1 đô”. Diana Dương “không thấy thức ăn ở quán này ngon, dù giá rẻ. Diana thích phở trong quán Phở K&K, trên đường Telegraph.”. Các món khác cô chê. Diana nói cô đã phải “hạ thấp tiêu chuẩn về hương vị Việt từ ngày vào trường”.

Theo cựu sinh viên Lê Quang Tuấn, tốt nghiệp thạc sĩ năm 2008 thì “không có quán ăn Việt nào ngon quanh trường hay dưới downtown”. Muốn thức ăn Việt anh Tuấn thường qua Oakland.

Còn Tiến sĩ Trang Hùng Phong, theo học ở Berkeley từ năm thứ nhất cho đến khi nhận bằng tiến sĩ vi sinh học và hiện làm việc trong trường, anh thích “món bún thịt nướng ở Ánh Hồng hay Le Régal ngon, tuy giá hơi cao”. Muốn ăn nhanh, anh ghé Saigon Express.

Derek Phan cũng thích quán Saigon Express vì “phở có xách, chín, bắp, nạm, gầu, bò viên và bánh mì thì có đủ patê, dưa chua, ngò, bơ và giá cả hợp lí, bánh mì 2 đô 75 xu, phở khoảng 7 đô”.

Là một du sinh từ Việt Nam, Derek đang học năm thứ ba khoa chính trị kinh doanh và tự nhận là thường ăn các hàng quán Việt quanh trường. Anh nhận xét: “Thức ăn Việt ở đây đa dạng và món ăn khá phong phú, nhưng chỉ vài món để lại ấn tượng mạnh.”

Theo Derek, Le Cheval “gây cảm tình đặc biệt và là quán Việt rộng, sang nhất quanh trường. Ở đó nổi bật nhất là cơm nâu (brown rice) ăn với bò xào, bò kho hay đậu hũ kho. Còn bánh mì và phở rất chi là chán vì không đủ thành phần”.

Về thức uống, anh nhận xét: “Hầu hết các quán đều có gắng cho thực khách thưởng thức cafe với fin cafe đặc trưng của Việt Nam, nhưng chất lượng thật khó mà so sánh với cafe đúng quy cách ở Việt Nam. Riêng Saigon Express có bán các loại chè khá ngon như chè bắp, xoài, chuối, đậu trắng với nước cốt dừa, giá 2 đô cũng vừa”.

Bàn chuyện ăn uống thì ai cũng biết món phở của người Việt đã được cả thế giới biết đến. Cuộc đời tôi đã ăn có đến cả nghìn tô đủ loại. Tuy thế, thỉnh thoảng vào một quán ở San Jose vẫn thấy có những món phở lạ như: phở đập, phở bê thui, phở hải sản, phở gà đi bộ. Rồi Nghe quảng cáo phở ngầu pín ăn rất bổ cho quý ông, coi phần dịch tiếng Anh tôi cũng phải phì cười. Trước đây tôi có thử, công hiệu ra sao chẳng biết nhưng không thấy ngon nên chẳng mê. Đến giờ tôi chỉ nghiền tái vè dòn.

Cuối tuần qua cùng gia đình lang thang dưới phố Berkeley và có ghé quán CU Sushi ăn trưa. Tên tiệm nghe đã buồn cười. Nhìn thực đơn lại có “Orgasm Salad” (sà-lát cực sướng) ngay đầu bảng các món đặc biệt mà giật mình. Có bạn nào đã thử món Nhật này chưa?

© 2012 Buivanphu.wordpress.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.