Hôm nay,  

Định Mệnh

08/11/201200:00:00(Xem: 9921)
(Trích Quê Hương Còn Đó trong Tuyển Tập Trần Phong Vũ do tủ sách Tiếng Quê Hương ấn hành và sẽ được tổ chức giới thiệu ở Trung Tậm Công Giáo Việt Nam Giáo phận Orange lúc 2 giờ chiều Chúa Nhật 11-11-2012.)

- Ông nói chi mô lạ rứa?

Nguyễn lặng người. Âm vang của những-ngày-xưa-thân-ái bên giòng Hương Giang, dưới chân Núi Ngự, trên những con đường mòn quanh co như bày rắn dẫn lên những đồi thông hoặc vào khu lăng tẩm cổ kính rêu phong của những bậc Đế Vương Triều Nguyễn… trong một giây –cùng với giọng nói ngọt ngào thánh thót của người con gái trước mặt- lãng đãng hiện về trong tâm tưởng anh.

- Xin lỗi cô. Cô là người Huế ạ?

- Dạ. Còn ông, chắc ông là người Hànội phải không ạ?

Nguyễn nhận ra trong câu trả lời của người đối diện một vẻ diễu cợt cố tình. Nàng nhấn mạnh tiếng ạ ở cuối câu cho có vẻ Bắc, nhưng vẫn không che giấu được cái âm sắc đặc biệt trong giọng nói của người con gái đất Thần kinh.

- Dạ, cô nói đúng nhưng chỉ đúng có một nửa thôi.

- Ủa! Ông nói chi mô lạ rứa? Trúng mà chỉ trúng có một nửa là răng tề?

- Dạ. Thưa cô, vì thực tế tôi chỉ sống ở Hànội đến năm 18 tuổi và sau đó tiếp tục sống ở Sàigòn, ở đồng bằng sông Cửu Long, ở Quảng Trị… và ở Huế nữa.

Người con gái lạ mỉm cười vu vơ. Nàng ngước mắt nhìn lên tàn cây cao. Qua nàng, Nguyễn như thấy lại một nhân dáng quen thuộc, nhưng nhất thời chưa nhận ra. Ẩn sâu sau cặp mắt mở lớn, đen láy, có hàng mi dài cong vút của nàng anh thoáng thấy hình ảnh giòng Hương Giang trong một đêm trăng huyền hoặc thuở nào.

Ký ức chập chờn, lãng đãng, lẩn khuất đâu đây như một làn khói mơ hồ.

- Người ta nói con gái Huế lãng mạn. Nguyễn, anh có nghĩ rứa không hỉ?

Nguyễn cúi xuống. Anh nhìn thật sâu vào đôi mắt Trà Giang. Đôi mắt sáng, trong như giòng sông phản chiếu ánh trăng thu.

- Trước khi trả lời câu hỏi của Giang, anh muốn biết em hiểu thế nào về hai chữ lãng mạn?

Một thoáng bối rối, Trà Giang chớp nhanh đôi mắt, dáng suy nghĩ. Một thoáng hồng e thẹn trên gò má, nàng ấp úng.

- Lãng mạn là… là… anh hỏi chi mô ác rứa? Giang trả lời bậy đừng cười nghe anh.

Nguyễn gật đầu, mỉm cười nhìn người yêu chăm chú.

- Lãng mạn là… là không đứng đắn… là đa tình… là ưa chuyện trai gái… là như Giang đây nè…

Trà Giang vươn đôi cánh tay trần, trắng, tròn lẳn, mát lạnh, bá cổ Nguyễn vít xuống, cuồng nhiệt hôn lên môi lên mắt chàng.

Nguyễn mỉm cười, nhẹ lắc đầu, hôn trả lại lên vầng trán rịn mồ hôi của người yêu.

- Định nghĩa của em có thể đúng, nhưng chỉ đúng ở khía cạnh hẹp và thấp nhất của từ lãng mạn. Theo anh, lãng mạn là một đặc tính, một hành vi vượt lên trên và ra ngoài khuôn khổ thông thường, không giống với lối nhìn, lối nghĩ, lối nhận, lối phản ứng của những người có tầm hiểu biết trung bình. Như thế, lãng mạn đâu có gì là xấu, là đáng trách. Anh nhớ một nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết nào đó đã hết lời biện hộ cho cái lãng mạn của người con gái Huế đại khái như sau. Nếu bảo rằng lãng mạn là một tội, một điều xấu xa đi nữa thì người phụ nữ Huế -bao gồm những người bị dư luận gán cho là lãng mạn- cũng không hề mang tội hoặc mang một điều xấu nào hết. Chính cái đẹp, cái thơ mộng muôn đời, bất tuyệt của cảnh trí nơi đây đã góp phần làm nên cái chất lãng mạn nơi người đàn bà.. Như thế, dù là ai chăng nữa, nếu có dịp sống ở Huế, thở hít bầu không khí nên thơ, diệu hoặc của Huế đều trở nên lãng mạn cả.

Lồng vội mười ngón tay ngà ngọc lên sóng tóc bồng bềnh của Nguyễn, Trà Giang rướn người tham lam vít đầu người yêu xuống hôn như điên như dại.

- Tư ơi! Tới giờ đi sắp hàng lãnh phần ăn rồi con.

Tiếng réo gọi chát chúa của người đàn bà vọng lên đâu đó. Ký ức chắp cánh bay xa. Nguyễn như bừng tỉnh, Anh ngước đôi mắt thất thần, trì độn nhìn ngơ ngác. Người con gái lạ nói giọng Huế đã bỏ đi từ lúc nào. Nguyễn tự giận mình đãng trí và không khỏi luyến tiếc vì bỏ mất cơ hội không hỏi tên và nơi trú ngụ của gia đình nàng trong trại. Từ trong thâm tâm, Nguyễn vừa nhen nhúm một niềm hy vọng mong manh. Biết đâu người thiếu nữa lạ vừa rồi chẳng giúp anh biết đôi chút tin tức về Trà Giang.. Đưa mắt nhìn hàng trăm căn lều vải san sát đàng trước mặt đàng sau lưng, nơi tạm trú của hàng mấy chục ngàn bà con tị nạn, Nguyễn không giấu được cảm nghĩ chán chường, tuyệt vọng. Anh tự giận mình và loay hoay hoài với câu hỏi: làm sao và bằng cách nào tìm ra tông tích người con gái lạ có giọng nói xứ Huế vừa qua?

Gia đình Nguyễn đặt chân lên trại tị nạn Guam từ hơn một tuần nay. Anh xót xa nhớ lại những ngày chật vật, khốn khổ, chen chúc như bày súc vật trên con tàu chở tới trên 9000 nhân mạng. Và bây giờ là những buổi trưa chiều nối đuôi nhau đi xếp hàng lãnh phần ăn. Quá khứ tối đen! Hiện tại buồn chán, và tương lai mù mịt!

Thêm một tuần lễ nữa trôi nhanh. Bóng dáng người thiếu nữ lạ vẫn tuyệt mù tăm cá! Liên tiếp trong nhiều ngày, anh đã lê la tìm tới những lớp học anh văn, những phòng phát thuốc, những căn lều được dùng làm nhà thờ dành cho đồng bào Công Giáo, hoặc chùa của bà con Phật tử, kể cả các khu nhà ăn và văn phòng làm việc của ban quản trị trại, hy vọng gặp lại nàng nhưng hoàn toàn vô vọng. Một buổi chiều gia đình anh được lệnh lên xe buýt di chuyển tới một trại tạm cư khác trước khi hoàn tất thủ tục lên phi cơ vào lục địa Hoa Kỳ.

Nguyễn nối gót bà con đồng hương bước lên phi cơ mà nghe lòng mình đau xót. Ý niệm về sự gần gũi tương đối trong không gian cũng như khí hậu quen thuộc của đảo Guam dù sao cũng có lúc đánh lừa được Nguyễn là anh chưa hoàn toàn bị bứt lìa ra khỏi vùng trời quê hương yêu dấu. Nhưng giây phút này, khi biết rằng mình sắp sửa được người ta đưa đi định cư ở bang California thuộc miền tây Mỹ Quốc, Nguyễn bắt đầu cảm nhận được tất cả những mất mát to lớn trong anh.

Chiếc máy bay nhẹ nhàng rời phi đạo bốc lên trời cao. Nguyễn dán mắt vào chiếc cửa sổ hình bầu dục. Anh nhìn lại Guam tiếc nuối như nhìn lại một Hà Tiên, một Phú Quốc những ngày cuối tháng Tư khốn khổ. Cho tới lúc Guam chỉ còn là một chấm nhỏ rồi mất hút giữa đại dương mù mịt. Màu xanh của nước biển, màu xanh của nền trời đưa đẩy trí tưởng tượng của Nguyễn trở về với màu xanh bạt ngàn của một khu rừng thông vào một buổi chiều trên đồi Thiên An thuở trước.

Những đọt thông xanh ngắt, chen chúc phủ kín cả một vùng núi đồi mênh mông, nhấp nhô lên xuống. Nguyễn dìu Trà Giang men theo con đường mòn quanh co dẫn lên đỉnh cao. Mặc dầu mệt, Trà Giang vẫn lảnh lót nói cười luôn miệng. Những sợi tóc đen dài, mềm mại dính quện trên vừng trán phẳng rịn những giọt mồ hôi lấm tấm của nàng. Nguyễn ngừng lại đắm mắt nhìn người yêu. Trà Giang cất tiếng cười trong veo, tinh nghịch trấy những trái thông khô ném lên đầu Nguyễn. Quơ tay che mặt, anh lao người về phía trước ôm gọn người yêu vào lòng. Nguyễn nâng cầm người yêu, nhìn thẳng vào cặp mắt đam mê của nàng. Anh cúi xuống mải mê hôn lên đôi môi mọng chín của người con gái đất Thần Kinh. Có tiếng chim vỗ cánh xào xạc đâu đó. Hai người rời nhau. Trà Giang đảo mắt nhìn nhớn nhác.


- Có ai mô mà o có dáng sợ hãi rứa?

Trà Giang nhìn lại Nguyễn, Hóm hỉnh nhái giọng Bắc.

- Có chứ tại sao không? Bộ anh không thấy có anh, có Giang, có trời, có đất, có cỏ cây, đồi núi đó sao?

Nói xong nàng cất tiếng cười vang động cả một vùng đồi núi rồi chạy mất hút vào khu rừng thông phía sau đồi. Còn lại một mình, Nguyễn bâng khuâng nhớ lại ngày đầu tiên gặp Trà Giang trong phái đoàn sinh viên đại học Huế đi ủy lạo đơn vị anh đang trấn đóng ở một vùng giáp ranh Bến Hải. Và hình ảnh người nữ sinh viên trong bộ áo dài đen với dáng dấp e thẹn, với hàng mi dài cong vút, với cặp mắt sáng đam mê ấy đã mê hoặc Nguyễn. Và cũng từ đấy, Huế đã trở thành một khối từ thạch thu hút tâm hồn và trí não người lính Bắc đa tình là Nguyễn. Những ngày nghỉ phép hiếm hoi, ngắn ngủi của anh đã biến thành kỷ niệm bên những ly chè Cồn Hến, những đĩa bánh bèo, bánh lá Vĩ Dạ, cùng những buổi rong chơi hò hẹn bên bờ sông Hương hoặc trên những con đường mòn dẫn vào lăng mộ các vua triều Nguyễn.

Sau chuyến đi chơi đồi Thiên An hôm ấy, vì chiến cuộc trở nên căng thẳng bất ngờ, đơn vị anh liên tiếp phải di chuyển nên Nguyễn không còn có cơ hội trở về Huế thăm gặp Trà Giang. Anh không ngờ rằng đấy là chuyến đi chơi cuối cùng của hai người.

Mặt trận cực bắc tan vỡ. Nguyễn theo đơn vị rút vào Đà Nẵng. Khi đoàn xe di chuyển qua cầu Trường Tiền, anh xót xa chứng kiến cảnh tan hoang náo loạn của cố đô với từng đoàn người hốt hoàng, lũ lướt bồng bế nhau tất tả xuôi nam. Lòng đau như cắt, Nguyễn không làm cách nào liên lạc được với người yêu. Rồi những ngày tháng Tư định mệnh chụp xuống như một cơn lốc kinh hoàng đã tàn nhẫn đẩy anh ra khỏi vùng trời quê hương không một chọn lựa!

Đang bay thật đầm, bỗng dưng gặp khoảng chân không, phi cơ trút xuống thật sâu, khiến đám hành khách hầu hết là dân tị nạn la lên hốt hoảng. Nguyễn nhìn qua khung kính. Từng tảng mây trắng lơ lửng lưng trời. Âm hưởng bốn câu thơ ngày nào Trà Giang kẹp bào cuốn sách gửi cho anh với cánh hoa màu tím lại vang lên bên tai Nguyễn.

Tôi trở lại con đường lên núi biếc,
Thương mây bay từ đấy vẫn cô đơn
Những bông hoa còn có nửa linh hồn,
Những lá cỏ xôn xao tìm ảo mộng!

- Giờ thì hết, hết thật rồi Trà Giang ạ. Những con đường xưa, những áng mây cũ, những rặng thông, những cỏ hoa tươi thắm thuở nào chỉ còn là những kỷ niệm buồn trong anh mà thôi.

Mảnh trăng lưỡi liềm nhô lên sau rặng dừa bên kia bờ nước. Nguyễn ngồi lặng câm, mặc cho những sợi tóc của Linda vờn nhẹ trên má, trên cổ anh.

- Tại sao mỗi lần ngồi ngắm trăng khuya anh lại có vẻ buồn và xa vắng như vậy hả Nguyễn?

Dựa đầu vào vai Nguyễn, Linhda nhướng mắt hỏi anh lần thứ hai.

- Linhda thấy anh buồn và xa vắng lắm sao? Có lẽ đấy là một thói quen xấu. Chính anh cũng không hiểu tại sao nữa.

- Thôi quên đi cưng.

Nói xong Linda rướn người lên, vươn đôi tay dài ôm Nguyễn hôn say đắm. Nguyễn cuồng nhiệt hôn trả lại.

Trong môi hôn anh nghe trong đầu có tiếng Trà Giang thì thầm. Nguyễn muốn trốn chạy Giang nhưng anh không thể trốn được định mệnh. Em nói đúng Trà Giang à. Và chúng mình đã bị định mệnh cột chặt bên nhau vào một đêm trăng huyền hoặc nơi cố đô muôn đời thơ mộng. Anh yêu em Trà Giang ơi!

Linda đẩy mạnh Nguyễn ra xa rồi bật đứng dậy cất tiếng cười như xé lụa.

- Anh này lạ. Lúc thì giá lạnh như tảng băng miền Bắc cực. Khi thì cuồng say như con thú khát tình. Anh cắn môi Linda muốn đứt rồi nè.

Đang nói bỗng dưng Linda im bặt khi nhận ra vẻ mặt ngơ ngác, thất thần của Nguyễn. Nàng bước tới ôm anh dìu đứng dậy.
- Thôi khuya rồi. Mình về phòng nghe cưng.

Nhịp thở của Linda vang lên đều đặn. Nguyễn nhẹ nhàng ngồi dậy, cố gắng không gây một tiếng động. Anh đứng lên, với tay cầm bao thuốc và chiếc hộp quẹt trên bàn ngủ rối lách mình ra ban công châm hút. Những ý nghĩ âm thầm dựng lên trong trí Nguyễn. Bốn tháng ở trại tạm cư Indian Town Gap, Pennsylvania. Một năm theo chân người bảo trợ lưu lạc miền băng giá Alaska. Và bây giờ sống tạm bợ bên một cô gái Mỹ hoàn toàn khác biệt về mọi phương diện, từ những rung động thể xác cho tới những xúc cảm của tâm hồn. Chưa bao giờ anh cảm thấy sự cô đơn lớn rộng vây bủa con người và trí tưởng anh bằng lúc này.

Tiếng chuông đĩện thoại trong phòng reo lên từng nhịp. Linda trở mình, ú ớ. Nguyễn dụi tàn thuốc lá, lách vội vào phòng. Anh áp ống nghe vào tai. Từ bên kia đầu giây, giọng hối hả, giục giã của một người đàn bà Huế vang lên.

- Có phải ông là ông Nguyễn không? Xin ông tới lẹ không trễ mất. Chị Trà Giang tôi muốn gặp ông lần cuối. Chúng tôi đang ở bệnh viện…. số ….. đường…..

Nguyễn bàng hoàng, chết lặng trong giây lâu. Anh nghe có tiếng nấc ở bên kia đầu giây nói. Mặc những lời cật vấn của Linda, Nguyễn lẳng lặng mặc quấn áo, mang giầy rồi tất tả ra xe.

Khoảng 15 phút sau, Nguyễn bước vào phòng chờ trước khu cấp cứu của bệnh viện. Một người thiếu phụ đầu tóc bơ phờ, dáng dấp mệt mỏi từ hàng ghế bên kia đi tới. Nàng khóc nấc khi đứng trước mặt Nguyễn.

- Ông tới trễ mất rồi. Chị Trà Giang không còn nữa. Chị tui kêu tên ông hoài hoài trước khi nhắm mắt.

Mặt đất tưởng chừng rạn vỡ dưới chân Nguyễn. Người thiếu phụ vẫn tiếp tục kể lể, giọng đầy nước mắt.

- Gặp ông ở Guam, tui đâu có dè ông là bạn của chị Giang. Ngay buổi chiều hôm ấy chị em tui rời trại Ô-Rốt qua A-San ở một tuần để làm thủ tục trước khi được đưa vào lục địa Mỹ. Chúng tui ở trại Fort Chaffee, Arkansas hai tháng thì xuất trại theo người bảo trợ đi định cư ở bang Iowa. Cách đây một tuần, tình cờ chị tui đọc báo và nhận được tin ông rao tìm. Chị tui mừng quýnh. Mặc dầu chưa kịp bán nhà, bán đồ đạc nhưng chị Giang nhất quyết qua gặp ông ngay. Tui hối chị biên thư hoặc kêu điện thoại báo tin ông hay nhưng chị tui không chịu vì muốn dành cho ông sự bất ngờ. Ai dè tai nạn đã bất ngờ xảy ra. Bây giờ thì thật hết rồi. Khổ thân chị tui!!!…

Với cặp mắt đẫm lệ, người con gái nhìn Nguyễn giọng thì thầm như nói với chính mình.

- Nhờ mẩu tin tìm người thân trên báo, ông nhắc lại cuộc gặp gỡ tình cờ ở Guam tôi mới hay ông là bạn chị Trà Giang. Thật đáng tiếc, nếu…

Nắm chặt bàn tay lạnh ngắt của Trà Giang, lòng Nguyễn như dao cắt.

- Tại sao gặp anh mà em không nói với anh một lời hả Trà Giang? Em nói đúng Giang ạ. Anh đã không trốn khỏi bàn tay của định mệnh. Ngày xưa –những-ngày-xưa-thân-ái- có lần anh muốn trốn chạy em, nhưng định mệnh đã cột anh lại bên em. Chừ đây, chúng mình muốn tìm tới bên nhau thì định mệnh quái ác lại đẩy chúng ta xa nhau. Xa nhau vĩnh viễn.

Overland Park, Kansas, những ngày cuối thu 1977
Trần Phong Vũ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Các cuộc xung đột giữa Do Thái với Palestine cùng khối Ả Rập là vấn đề nan giải cho Hoa Kỳ lẫn thế giới bởi Do Thái không hề nhượng bộ, luôn có những hành động cứng rắn và trả đũa tàn bạo. Cuộc xung đột hiện nay xảy ra khi Do Thái trục xuất sáu gia đình Palestine tại Đông Jerusalem, là điều mà Do Thái từng bước thực hiện với người dân Palestine từ nhiều năm qua.
Tôi yêu những nông dân thôn Hoành, tôi yêu những nông dân Dương Nội. Yêu cái hồn của đất – nơi con người đang phải đối mặt với phong ba bão táp; nơi con người bước trên nghịch cảnh bằng sự cao quý và khí phách của riêng mình. Tôi có một niềm tin vững chắc rằng lòng tử tế và sự dũng cảm của họ sẽ lan toả và lan rộng.
Từ Văn phòng Viện Tăng Thống, tuy chỉ tồn tại trên danh nghĩa, trong phận sự bảo trì ấn tín của Viện Tăng Thống, kế thừa tâm nguyện của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống qua phú chúc di ngôn của Ngài trước ngày thị tịch; chúng tôi trên nương tựa uy đức Tăng già và đạo lực gia trì của Chư tôn Trưởng lão, kính gởi đến Chư tôn Hòa Thượng, Chư Thượng tọa, Đại đức Tăng-già nhị bộ, cùng tất cả bốn chúng đệ tử, tâm nguyện Bồ-đề được thể hiện qua các kỳ họp đã nêu, ước mong tất cả bằng Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành, bằng đức lực, trí lực, và tài lực, với hằng tâm và hằng sản, đồng tâm nhất trí góp phần công đức vào sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh mà Chư Thánh Đệ tử, Lịch đại Tổ sư, bằng hùng lực và trí tuệ, bằng từ bi và nhẫn nhục, khoan dung, trải qua vô vàn gian nan chướng duyên trở ngại, đã mang ngọn đèn chánh pháp đến những nơi tăm tối, cho những ai có mắt để thấy, dựng dậy những gì đã sụp đổ, dựng đứng những gì đang nghiêng ngả.
Ngày Phật đản sanh là ngày vui, ngày thiêng liêng và trọng đại của nhân loại. Dù là với truyền thống nào, tông môn pháp phái nào, dù ở quốc độ nào… Người con Phật cũng đều hoan hỷ và thanh tịnh thân tâm để tưởng niệm đức Phật.
Thì tôi cũng nói cho hết lẽ như thế. Chớ bao nhiêu lương dân ở Văn Giang, Dương Nội, Thủ Thiêm, Lộc Hưng… đang sống yên lành mà Đảng & Nhà Nước còn có thể nhẫn tâm biến họ thành những đám dân oan (vật vã khắp nơi) thì cái chính phủ hiện hành có xá chi đến những khúc ruột thừa ở Cambodia.
Bàn về kinh tế không thể không nhắc đến tiền. Tiền không mua được hạnh phúc nhưng không có tiền thì…đói. Tiền mang lại tự do (có tiền mua tiên) hay biến con người thành nô lệ đồng tiền. Con nít lên 3 đã biết tiền dùng để mua bánh kẹo, vậy mà các kinh tế gia giờ này vẫn không đồng ý chuyện tiền để làm chi!
Sau ngày 30/4/1975, nếu phe chiến thắng đã có những chính sách mang lại sự hoà giải quốc gia, đối xử nhân bản với bên thua trận, thay vì cải tạo học tập, càn quét và thiêu huỷ văn hoá miền Nam, đánh tư sản mại bản, thì đã không có hàng triệu người bỏ nước ra đi và người Việt sẽ chẳng mấy ai còn nhớ đến một đất nước của quá khứ, tuy chưa hoàn toàn tự do dân chủ nhưng so với Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì người dân đã được tự do hơn bây giờ rất nhiều.
Tất nhiên phải “thành công” vì đảng một mình một chợ, không có ai cạnh tranh hay đòi chia phần. Nhưng việc đảng chọn cho dân bầu chỉ để tuyên truyền cho phương châm “ý đảng lòng dân”, trong khi người dân không có lựa chọn nào khác mà buộc phải đi bỏ phiếu để tránh bị làm khó trong cuộc sống.
Âm nhạc dễ đi vào lòng người, với hình bóng mẹ, qua lời ca và dòng nhạc, mỗi khi nghe, thấm vào tận đáy lòng. Trước năm 1975, có nhiều ca khúc viết về mẹ. Ở đây, tôi chỉ đề cập đến những ca khúc tiêu biểu, quen thuộc đã đi vào lòng người từ ngày sống trên quê hương và hơn bốn thập niên qua ở hải ngoại.
Những bà mẹ Việt xưa nay rất chơn chất thật thà, rất đơn sơ giản dị cả đời lo cho chồng con quên cả thân mình. Sử Việt nghìn năm đương đầu với giặc Tàu, trăm năm chống giặc Tây. Những bà mẹ Việt bao lần âm thầm gạt lệ tiễn chồng con ra trận, người đi rất ít quay về. Những bà mẹ âm thầm ôm nỗi đau, nỗi nhớ thương da diết.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.