Hôm nay,  

Định Mệnh

08/11/201200:00:00(Xem: 9502)
(Trích Quê Hương Còn Đó trong Tuyển Tập Trần Phong Vũ do tủ sách Tiếng Quê Hương ấn hành và sẽ được tổ chức giới thiệu ở Trung Tậm Công Giáo Việt Nam Giáo phận Orange lúc 2 giờ chiều Chúa Nhật 11-11-2012.)

- Ông nói chi mô lạ rứa?

Nguyễn lặng người. Âm vang của những-ngày-xưa-thân-ái bên giòng Hương Giang, dưới chân Núi Ngự, trên những con đường mòn quanh co như bày rắn dẫn lên những đồi thông hoặc vào khu lăng tẩm cổ kính rêu phong của những bậc Đế Vương Triều Nguyễn… trong một giây –cùng với giọng nói ngọt ngào thánh thót của người con gái trước mặt- lãng đãng hiện về trong tâm tưởng anh.

- Xin lỗi cô. Cô là người Huế ạ?

- Dạ. Còn ông, chắc ông là người Hànội phải không ạ?

Nguyễn nhận ra trong câu trả lời của người đối diện một vẻ diễu cợt cố tình. Nàng nhấn mạnh tiếng ạ ở cuối câu cho có vẻ Bắc, nhưng vẫn không che giấu được cái âm sắc đặc biệt trong giọng nói của người con gái đất Thần kinh.

- Dạ, cô nói đúng nhưng chỉ đúng có một nửa thôi.

- Ủa! Ông nói chi mô lạ rứa? Trúng mà chỉ trúng có một nửa là răng tề?

- Dạ. Thưa cô, vì thực tế tôi chỉ sống ở Hànội đến năm 18 tuổi và sau đó tiếp tục sống ở Sàigòn, ở đồng bằng sông Cửu Long, ở Quảng Trị… và ở Huế nữa.

Người con gái lạ mỉm cười vu vơ. Nàng ngước mắt nhìn lên tàn cây cao. Qua nàng, Nguyễn như thấy lại một nhân dáng quen thuộc, nhưng nhất thời chưa nhận ra. Ẩn sâu sau cặp mắt mở lớn, đen láy, có hàng mi dài cong vút của nàng anh thoáng thấy hình ảnh giòng Hương Giang trong một đêm trăng huyền hoặc thuở nào.

Ký ức chập chờn, lãng đãng, lẩn khuất đâu đây như một làn khói mơ hồ.

- Người ta nói con gái Huế lãng mạn. Nguyễn, anh có nghĩ rứa không hỉ?

Nguyễn cúi xuống. Anh nhìn thật sâu vào đôi mắt Trà Giang. Đôi mắt sáng, trong như giòng sông phản chiếu ánh trăng thu.

- Trước khi trả lời câu hỏi của Giang, anh muốn biết em hiểu thế nào về hai chữ lãng mạn?

Một thoáng bối rối, Trà Giang chớp nhanh đôi mắt, dáng suy nghĩ. Một thoáng hồng e thẹn trên gò má, nàng ấp úng.

- Lãng mạn là… là… anh hỏi chi mô ác rứa? Giang trả lời bậy đừng cười nghe anh.

Nguyễn gật đầu, mỉm cười nhìn người yêu chăm chú.

- Lãng mạn là… là không đứng đắn… là đa tình… là ưa chuyện trai gái… là như Giang đây nè…

Trà Giang vươn đôi cánh tay trần, trắng, tròn lẳn, mát lạnh, bá cổ Nguyễn vít xuống, cuồng nhiệt hôn lên môi lên mắt chàng.

Nguyễn mỉm cười, nhẹ lắc đầu, hôn trả lại lên vầng trán rịn mồ hôi của người yêu.

- Định nghĩa của em có thể đúng, nhưng chỉ đúng ở khía cạnh hẹp và thấp nhất của từ lãng mạn. Theo anh, lãng mạn là một đặc tính, một hành vi vượt lên trên và ra ngoài khuôn khổ thông thường, không giống với lối nhìn, lối nghĩ, lối nhận, lối phản ứng của những người có tầm hiểu biết trung bình. Như thế, lãng mạn đâu có gì là xấu, là đáng trách. Anh nhớ một nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết nào đó đã hết lời biện hộ cho cái lãng mạn của người con gái Huế đại khái như sau. Nếu bảo rằng lãng mạn là một tội, một điều xấu xa đi nữa thì người phụ nữ Huế -bao gồm những người bị dư luận gán cho là lãng mạn- cũng không hề mang tội hoặc mang một điều xấu nào hết. Chính cái đẹp, cái thơ mộng muôn đời, bất tuyệt của cảnh trí nơi đây đã góp phần làm nên cái chất lãng mạn nơi người đàn bà.. Như thế, dù là ai chăng nữa, nếu có dịp sống ở Huế, thở hít bầu không khí nên thơ, diệu hoặc của Huế đều trở nên lãng mạn cả.

Lồng vội mười ngón tay ngà ngọc lên sóng tóc bồng bềnh của Nguyễn, Trà Giang rướn người tham lam vít đầu người yêu xuống hôn như điên như dại.

- Tư ơi! Tới giờ đi sắp hàng lãnh phần ăn rồi con.

Tiếng réo gọi chát chúa của người đàn bà vọng lên đâu đó. Ký ức chắp cánh bay xa. Nguyễn như bừng tỉnh, Anh ngước đôi mắt thất thần, trì độn nhìn ngơ ngác. Người con gái lạ nói giọng Huế đã bỏ đi từ lúc nào. Nguyễn tự giận mình đãng trí và không khỏi luyến tiếc vì bỏ mất cơ hội không hỏi tên và nơi trú ngụ của gia đình nàng trong trại. Từ trong thâm tâm, Nguyễn vừa nhen nhúm một niềm hy vọng mong manh. Biết đâu người thiếu nữa lạ vừa rồi chẳng giúp anh biết đôi chút tin tức về Trà Giang.. Đưa mắt nhìn hàng trăm căn lều vải san sát đàng trước mặt đàng sau lưng, nơi tạm trú của hàng mấy chục ngàn bà con tị nạn, Nguyễn không giấu được cảm nghĩ chán chường, tuyệt vọng. Anh tự giận mình và loay hoay hoài với câu hỏi: làm sao và bằng cách nào tìm ra tông tích người con gái lạ có giọng nói xứ Huế vừa qua?

Gia đình Nguyễn đặt chân lên trại tị nạn Guam từ hơn một tuần nay. Anh xót xa nhớ lại những ngày chật vật, khốn khổ, chen chúc như bày súc vật trên con tàu chở tới trên 9000 nhân mạng. Và bây giờ là những buổi trưa chiều nối đuôi nhau đi xếp hàng lãnh phần ăn. Quá khứ tối đen! Hiện tại buồn chán, và tương lai mù mịt!

Thêm một tuần lễ nữa trôi nhanh. Bóng dáng người thiếu nữ lạ vẫn tuyệt mù tăm cá! Liên tiếp trong nhiều ngày, anh đã lê la tìm tới những lớp học anh văn, những phòng phát thuốc, những căn lều được dùng làm nhà thờ dành cho đồng bào Công Giáo, hoặc chùa của bà con Phật tử, kể cả các khu nhà ăn và văn phòng làm việc của ban quản trị trại, hy vọng gặp lại nàng nhưng hoàn toàn vô vọng. Một buổi chiều gia đình anh được lệnh lên xe buýt di chuyển tới một trại tạm cư khác trước khi hoàn tất thủ tục lên phi cơ vào lục địa Hoa Kỳ.

Nguyễn nối gót bà con đồng hương bước lên phi cơ mà nghe lòng mình đau xót. Ý niệm về sự gần gũi tương đối trong không gian cũng như khí hậu quen thuộc của đảo Guam dù sao cũng có lúc đánh lừa được Nguyễn là anh chưa hoàn toàn bị bứt lìa ra khỏi vùng trời quê hương yêu dấu. Nhưng giây phút này, khi biết rằng mình sắp sửa được người ta đưa đi định cư ở bang California thuộc miền tây Mỹ Quốc, Nguyễn bắt đầu cảm nhận được tất cả những mất mát to lớn trong anh.

Chiếc máy bay nhẹ nhàng rời phi đạo bốc lên trời cao. Nguyễn dán mắt vào chiếc cửa sổ hình bầu dục. Anh nhìn lại Guam tiếc nuối như nhìn lại một Hà Tiên, một Phú Quốc những ngày cuối tháng Tư khốn khổ. Cho tới lúc Guam chỉ còn là một chấm nhỏ rồi mất hút giữa đại dương mù mịt. Màu xanh của nước biển, màu xanh của nền trời đưa đẩy trí tưởng tượng của Nguyễn trở về với màu xanh bạt ngàn của một khu rừng thông vào một buổi chiều trên đồi Thiên An thuở trước.

Những đọt thông xanh ngắt, chen chúc phủ kín cả một vùng núi đồi mênh mông, nhấp nhô lên xuống. Nguyễn dìu Trà Giang men theo con đường mòn quanh co dẫn lên đỉnh cao. Mặc dầu mệt, Trà Giang vẫn lảnh lót nói cười luôn miệng. Những sợi tóc đen dài, mềm mại dính quện trên vừng trán phẳng rịn những giọt mồ hôi lấm tấm của nàng. Nguyễn ngừng lại đắm mắt nhìn người yêu. Trà Giang cất tiếng cười trong veo, tinh nghịch trấy những trái thông khô ném lên đầu Nguyễn. Quơ tay che mặt, anh lao người về phía trước ôm gọn người yêu vào lòng. Nguyễn nâng cầm người yêu, nhìn thẳng vào cặp mắt đam mê của nàng. Anh cúi xuống mải mê hôn lên đôi môi mọng chín của người con gái đất Thần Kinh. Có tiếng chim vỗ cánh xào xạc đâu đó. Hai người rời nhau. Trà Giang đảo mắt nhìn nhớn nhác.


- Có ai mô mà o có dáng sợ hãi rứa?

Trà Giang nhìn lại Nguyễn, Hóm hỉnh nhái giọng Bắc.

- Có chứ tại sao không? Bộ anh không thấy có anh, có Giang, có trời, có đất, có cỏ cây, đồi núi đó sao?

Nói xong nàng cất tiếng cười vang động cả một vùng đồi núi rồi chạy mất hút vào khu rừng thông phía sau đồi. Còn lại một mình, Nguyễn bâng khuâng nhớ lại ngày đầu tiên gặp Trà Giang trong phái đoàn sinh viên đại học Huế đi ủy lạo đơn vị anh đang trấn đóng ở một vùng giáp ranh Bến Hải. Và hình ảnh người nữ sinh viên trong bộ áo dài đen với dáng dấp e thẹn, với hàng mi dài cong vút, với cặp mắt sáng đam mê ấy đã mê hoặc Nguyễn. Và cũng từ đấy, Huế đã trở thành một khối từ thạch thu hút tâm hồn và trí não người lính Bắc đa tình là Nguyễn. Những ngày nghỉ phép hiếm hoi, ngắn ngủi của anh đã biến thành kỷ niệm bên những ly chè Cồn Hến, những đĩa bánh bèo, bánh lá Vĩ Dạ, cùng những buổi rong chơi hò hẹn bên bờ sông Hương hoặc trên những con đường mòn dẫn vào lăng mộ các vua triều Nguyễn.

Sau chuyến đi chơi đồi Thiên An hôm ấy, vì chiến cuộc trở nên căng thẳng bất ngờ, đơn vị anh liên tiếp phải di chuyển nên Nguyễn không còn có cơ hội trở về Huế thăm gặp Trà Giang. Anh không ngờ rằng đấy là chuyến đi chơi cuối cùng của hai người.

Mặt trận cực bắc tan vỡ. Nguyễn theo đơn vị rút vào Đà Nẵng. Khi đoàn xe di chuyển qua cầu Trường Tiền, anh xót xa chứng kiến cảnh tan hoang náo loạn của cố đô với từng đoàn người hốt hoàng, lũ lướt bồng bế nhau tất tả xuôi nam. Lòng đau như cắt, Nguyễn không làm cách nào liên lạc được với người yêu. Rồi những ngày tháng Tư định mệnh chụp xuống như một cơn lốc kinh hoàng đã tàn nhẫn đẩy anh ra khỏi vùng trời quê hương không một chọn lựa!

Đang bay thật đầm, bỗng dưng gặp khoảng chân không, phi cơ trút xuống thật sâu, khiến đám hành khách hầu hết là dân tị nạn la lên hốt hoảng. Nguyễn nhìn qua khung kính. Từng tảng mây trắng lơ lửng lưng trời. Âm hưởng bốn câu thơ ngày nào Trà Giang kẹp bào cuốn sách gửi cho anh với cánh hoa màu tím lại vang lên bên tai Nguyễn.

Tôi trở lại con đường lên núi biếc,
Thương mây bay từ đấy vẫn cô đơn
Những bông hoa còn có nửa linh hồn,
Những lá cỏ xôn xao tìm ảo mộng!

- Giờ thì hết, hết thật rồi Trà Giang ạ. Những con đường xưa, những áng mây cũ, những rặng thông, những cỏ hoa tươi thắm thuở nào chỉ còn là những kỷ niệm buồn trong anh mà thôi.

Mảnh trăng lưỡi liềm nhô lên sau rặng dừa bên kia bờ nước. Nguyễn ngồi lặng câm, mặc cho những sợi tóc của Linda vờn nhẹ trên má, trên cổ anh.

- Tại sao mỗi lần ngồi ngắm trăng khuya anh lại có vẻ buồn và xa vắng như vậy hả Nguyễn?

Dựa đầu vào vai Nguyễn, Linhda nhướng mắt hỏi anh lần thứ hai.

- Linhda thấy anh buồn và xa vắng lắm sao? Có lẽ đấy là một thói quen xấu. Chính anh cũng không hiểu tại sao nữa.

- Thôi quên đi cưng.

Nói xong Linda rướn người lên, vươn đôi tay dài ôm Nguyễn hôn say đắm. Nguyễn cuồng nhiệt hôn trả lại.

Trong môi hôn anh nghe trong đầu có tiếng Trà Giang thì thầm. Nguyễn muốn trốn chạy Giang nhưng anh không thể trốn được định mệnh. Em nói đúng Trà Giang à. Và chúng mình đã bị định mệnh cột chặt bên nhau vào một đêm trăng huyền hoặc nơi cố đô muôn đời thơ mộng. Anh yêu em Trà Giang ơi!

Linda đẩy mạnh Nguyễn ra xa rồi bật đứng dậy cất tiếng cười như xé lụa.

- Anh này lạ. Lúc thì giá lạnh như tảng băng miền Bắc cực. Khi thì cuồng say như con thú khát tình. Anh cắn môi Linda muốn đứt rồi nè.

Đang nói bỗng dưng Linda im bặt khi nhận ra vẻ mặt ngơ ngác, thất thần của Nguyễn. Nàng bước tới ôm anh dìu đứng dậy.
- Thôi khuya rồi. Mình về phòng nghe cưng.

Nhịp thở của Linda vang lên đều đặn. Nguyễn nhẹ nhàng ngồi dậy, cố gắng không gây một tiếng động. Anh đứng lên, với tay cầm bao thuốc và chiếc hộp quẹt trên bàn ngủ rối lách mình ra ban công châm hút. Những ý nghĩ âm thầm dựng lên trong trí Nguyễn. Bốn tháng ở trại tạm cư Indian Town Gap, Pennsylvania. Một năm theo chân người bảo trợ lưu lạc miền băng giá Alaska. Và bây giờ sống tạm bợ bên một cô gái Mỹ hoàn toàn khác biệt về mọi phương diện, từ những rung động thể xác cho tới những xúc cảm của tâm hồn. Chưa bao giờ anh cảm thấy sự cô đơn lớn rộng vây bủa con người và trí tưởng anh bằng lúc này.

Tiếng chuông đĩện thoại trong phòng reo lên từng nhịp. Linda trở mình, ú ớ. Nguyễn dụi tàn thuốc lá, lách vội vào phòng. Anh áp ống nghe vào tai. Từ bên kia đầu giây, giọng hối hả, giục giã của một người đàn bà Huế vang lên.

- Có phải ông là ông Nguyễn không? Xin ông tới lẹ không trễ mất. Chị Trà Giang tôi muốn gặp ông lần cuối. Chúng tôi đang ở bệnh viện…. số ….. đường…..

Nguyễn bàng hoàng, chết lặng trong giây lâu. Anh nghe có tiếng nấc ở bên kia đầu giây nói. Mặc những lời cật vấn của Linda, Nguyễn lẳng lặng mặc quấn áo, mang giầy rồi tất tả ra xe.

Khoảng 15 phút sau, Nguyễn bước vào phòng chờ trước khu cấp cứu của bệnh viện. Một người thiếu phụ đầu tóc bơ phờ, dáng dấp mệt mỏi từ hàng ghế bên kia đi tới. Nàng khóc nấc khi đứng trước mặt Nguyễn.

- Ông tới trễ mất rồi. Chị Trà Giang không còn nữa. Chị tui kêu tên ông hoài hoài trước khi nhắm mắt.

Mặt đất tưởng chừng rạn vỡ dưới chân Nguyễn. Người thiếu phụ vẫn tiếp tục kể lể, giọng đầy nước mắt.

- Gặp ông ở Guam, tui đâu có dè ông là bạn của chị Giang. Ngay buổi chiều hôm ấy chị em tui rời trại Ô-Rốt qua A-San ở một tuần để làm thủ tục trước khi được đưa vào lục địa Mỹ. Chúng tui ở trại Fort Chaffee, Arkansas hai tháng thì xuất trại theo người bảo trợ đi định cư ở bang Iowa. Cách đây một tuần, tình cờ chị tui đọc báo và nhận được tin ông rao tìm. Chị tui mừng quýnh. Mặc dầu chưa kịp bán nhà, bán đồ đạc nhưng chị Giang nhất quyết qua gặp ông ngay. Tui hối chị biên thư hoặc kêu điện thoại báo tin ông hay nhưng chị tui không chịu vì muốn dành cho ông sự bất ngờ. Ai dè tai nạn đã bất ngờ xảy ra. Bây giờ thì thật hết rồi. Khổ thân chị tui!!!…

Với cặp mắt đẫm lệ, người con gái nhìn Nguyễn giọng thì thầm như nói với chính mình.

- Nhờ mẩu tin tìm người thân trên báo, ông nhắc lại cuộc gặp gỡ tình cờ ở Guam tôi mới hay ông là bạn chị Trà Giang. Thật đáng tiếc, nếu…

Nắm chặt bàn tay lạnh ngắt của Trà Giang, lòng Nguyễn như dao cắt.

- Tại sao gặp anh mà em không nói với anh một lời hả Trà Giang? Em nói đúng Giang ạ. Anh đã không trốn khỏi bàn tay của định mệnh. Ngày xưa –những-ngày-xưa-thân-ái- có lần anh muốn trốn chạy em, nhưng định mệnh đã cột anh lại bên em. Chừ đây, chúng mình muốn tìm tới bên nhau thì định mệnh quái ác lại đẩy chúng ta xa nhau. Xa nhau vĩnh viễn.

Overland Park, Kansas, những ngày cuối thu 1977
Trần Phong Vũ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.