Hôm nay,  

Thuyết Đấu Trí

07/12/201200:00:00(Xem: 18183)
Trung Quốc có nền kinh doanh ăn cắp, nền kinh tế ăn cướp và chính sách đối ngoại bá quyền...

Trong một chương trình chuyên đề cách đây hai tuần, chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa đã trình bày các xảo thuật thương thuyết của Trung Quốc. Nội dung của tiết mục này được nhiều thính giả chú ý, và câu hỏi được nêu ra là các nước có thể làm gì để ứng phó với động thái của lãnh đạo xứ này? Thực hiện chương trình Diễn đàn Kinh tế, Vũ Hoàng nêu câu hỏi nói trên như sau.

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Hôm 21 Tháng 11 vừa qua, ông có phân tích các thủ thuật đàm phán ngoại giao và thương thuyết kinh tế của lãnh đạo Trung Quốc với nhiều nhận xét gây chú ý về nỗi khó khăn của các nước trong tiến trình hợp tác với Bắc Kinh. Trong hoàn cảnh đó, thưa ông, thính giả của chúng ta muốn biết các nước đối tác có thể làm gì khi thương thuyết với Trung Quốc hầu bảo vệ được quyền lợi của họ?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Để tìm hiểu câu trả lời, tôi xin tự giới hạn trong phạm vi thương thuyết về kinh tế hay kinh doanh hơn là về ngoại giao. Nhưng cũng xin nhấn mạnh từ đầu, rằng mọi việc thương thuyết dù là ngoại giao hay kinh tế, đều bị chi phối bởi chính trị, là yếu tố mà ta không thể xao lãng. Khi nói đến chính trị, ta không quên rằng kinh tế chính là chính trị, và trước Marx trăm năm, có lẽ cha đẻ của môn kinh tế học là Adam Smith đã sớm nói đến "kinh tế chính trị học". Cho nên khi đàm phán về kinh tế hay kinh doanh, về các hồ sơ người ta gọi là "vĩ mô" hay "vi mô", chúng ta không thể bỏ qua yếu tố chính trị.

- Sở dĩ như vậy, và đây là chuyện đáng lưu ý nữa, các nước nói chung đều tham gia hợp tác và đàm phán cho việc hợp tác trong môi trường lý tưởng là có pháp quyền, với tinh thần minh bạch tôn trọng các luật lệ và cam kết. Sự thể thực tế thường không được như vậy và càng không hề có với Trung Quốc. Một thí dụ cụ thể là chủ trương của Bắc Kinh trong các hợp đồng khai thác và mua bán một sản phẩm tối cần thiết cho công nghiệp là đất hiếm, khi họ sẵn sàng bội tín để ấn định hạn ngạch xuất khẩu hoặc thay đổi giá biểu đã cam kết trước đó. Khi các nước phải tìm ra nguồn cung cấp khác về đất hiếm thì Bắc Kinh liền đổi giọng. Chính là sự yếu kém của các nước cũng tạo ra sức mạnh thương thuyết của Trung Quốc.

Vũ Hoàng: Ông nói như vậy thì ai cũng ngại, nhất là ở tại Việt Nam vì là một nước láng giềng nghèo và yếu hơn, đang bị Trung Quốc uy hiếp về nhiều mặt, lại do một đảng Cộng sản lãnh đạo mà đảng này lại coi lãnh đạo Bắc Kinh như một đồng chí về ý thức hệ.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng đúng thế, nhưng cũng chính vì vậy mà mình càng phải nói ra để thấy được đâu là nguyên nhân và đâu là hậu quả khi phân tích nghệ thuật đàm phán hay đấu trí với Trung Quốc.

Vũ Hoàng: Ông nói đến "đấu trí" vì nghĩ rằng việc đàm phán chính là đấu trí?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa ông, câu trả lời của tôi gồm có hai phần, truyền thống và hiện đại.

- Thứ nhất là về truyền thống thì người Việt đã có hơn hai ngàn năm đấu trí để tồn tại và còn giành lại độc lập sau ngàn năm Bắc thuộc. Kinh nghiệm tích lũy đó đã trở thành một phần hồn của dân tộc và là một kho kiến thức của tập thể mà mình nên nhắc lại và giáo dục cho các thế hệ. Phải nói rằng ít có dân tộc nào lại có nhiều kinh nghiệm ứng xử trong một chiều dày văn hóa và lịch sử như vậy. Cho nên những gì đang xảy ra từ mấy chục năm nay, từ khi có đảng Cộng sản Việt Nam được thành hình trong lãnh thổ của Trung Quốc, chỉ là một giai đoạn ngắn mà thôi.

- Thứ hai và về chuyện hiện đại thì tôi muốn nhân dịp này nhắc đến giải Nobel Kinh tế năm 1994 của ba học giả được giải thưởng vì lập ra một học thuyết về cách đấu trí. Người ta hay gọi đó là "thuyết trò chơi" do phiên dịch chữ "game theory" mà tôi xin phép dịch khác đi thành "thuyết đấu trí". Nếu áp dụng thuyết này thì ta có thể nhìn ra cách đàm phán thắng lợi với Trung Quốc.

Vũ Hoàng: Quả là ông hay có lối dẫn nhập hấp dẫn! Ông nói rằng có một thuyết đấu trí đã được giải Nobel về kinh tế trong khi đa số chúng ta thường chỉ nghĩ đến thuyết trò chơi trong phạm vi toán học thôi. Rồi ông còn cho rằng ta có thể áp dụng thuyết này khi đàm phán với Bắc Kinh. Đầu tiên, xin ông trình bày khái quát và thật dễ hiểu nội dung của cái thuyết đấu trí này.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trước hết, để các thính giả trẻ tuổi hay những ai quan tâm có thể tìm lên ngọn nguồn, xin nói rằng ba học giả đã lãnh giải Nobel Kinh tế 1994 là nhà toán học John Nash, và hai kinh tế gia là John Harsanyi người Mỹ gốc Hung-Áo và Reinhard Selten người Đức gốc Do Thái. Thuyết đấu trí của họ về sau được gọi là "Mô hình Nash/Harsanyi" vì ông Nash viết ra khi còn là sinh viên toán và ông Harsanyi giải thích cho tinh vi hơn về mặt tâm lý và kinh tế.

- Về nội dung thì tôi xin được tóm lược với ví dụ minh diễn như sau. Thứ nhất, cuộc đấu trí hoặc đàm phán có nhiều đối tác chứ không chỉ có hai người, thí dụ như Hiệp hội 10 Quốc gia Đông Nam Á và Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Hàn và Hoa Kỳ, tức là có 14 nước. Trong tập thể ấy, hãy tưởng tượng đến giải pháp thương thuyết của từng cặp hai nước, ví dụ như Mỹ với Việt Nam, Miên với Lào, Nhật với Trung Quốc, căn cứ trên quan hệ song phương của họ. Bước thứ ba là nghĩ đến thế liên kết đa phương để từng nước tranh thủ hay đấu tranh với nhau, ví dụ như giữa ba nước dân chủ theo kinh tế thị trường là Mỹ, Nhật, Hàn, hoặc giữa ba nước Đông Dương Việt, Miên, Lào bên cạnh Trung Quốc. Từ đó thì từng nước hay từng đối tác đã có nhiều chiến lược khác nhau trong tinh thần biến hoá là liên kết hay đối lập với nhau, kể cả chiến lược hăm dọa có thể sử dụng, thí dụ như những thiệt hại khả dĩ xảy ra nếu không đạt nổi đồng thuận.


Vũ Hoàng: Như ông vừa trình bày thì không chỉ có hai xứ, ví dụ như Việt Nam và Trung Quốc, đang đàm phán với nhau mà ngay trong cuộc đàm phán này còn có nhiều nước khác cũng liên hệ và có thể làm thay đổi chiến lược của từng nước. Tức là ta phải nghĩ rộng ra ngoài và vận dụng được các nước khác làm lợi thế thương thuyết của mình vì mở ra nhiều chiến lược khác. Nhưng ông cũng nói đến cả chiến lược hăm dọa, ví dụ như nêu ra những thiệt hại nếu không có thoả thuận và việc đàm phán tan vỡ. Đấy là chuyện gì vậy, thưa ông?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta sẽ trở lại cái điểm hăm dọa ấy vì đấy là nội dung chủ yếu của trò đấu trí này. Tôi xin trình bày tiếp là sau khi tính ra những chiến lược khác nhau mà từng nước có thể áp dụng khi đàm phán thì mình vẫn trở lại chuyện thế và lực. Tức là từng nước phải nghĩ đến các phương tiện kinh tế hay quân sự mà họ có thể huy động được từ bên trong, hoặc vận dụng từ các nước liên kết khác ở vòng ngoài. Thí dụ như trong vụ Hoàng Sa Trường Sa hay việc đầu tư khai thác năng lượng ngoài thềm lục địa của Việt Nam, người ta không chỉ có Hải quân Việt Nam đối diện với Hải quân Trung Quốc có bộ chỉ huy ở huyện Tam Sa mà còn có hải quân của các nước khác, hoặc không chỉ có tập đoàn dầu khí CNOOC của Bắc Kinh với các tổ hợp dầu hỏa Mỹ mà còn có nhiều quyền lợi kinh tế khác của ASEAN, Ấn Độ, Nhật, Nga, v.v...

- Bước thứ sáu là trong lối tính toán về huy động và vận dụng ấy, mình phải nghĩ đến quyền lợi có thể chia cho nước khác căn cứ trên sự đóng góp của họ, chứ thế gian không có chuyện hợp tác hay yểm trợ miễn phí. Sau cùng và quan trọng nhất trên một trận thế có rất nhiều giải pháp và chiến lược khả dụng, từng nước phải châm thêm yếu tố rủi ro, hoặc khả năng chịu đựng rủi ro, trong cách tính toán về quyền lợi của mình. Nếu chỉ nghĩ đến giải pháp ta cho là thuận lợi nhất mà không lý đến rủi ro hay thiệt hại thì mình bị nhược điểm duy ý chí trong cuộc đấu trí. Tôi biết là sự tình này rất phức tạp và khi vào cuộc thương thuyết thì phải vẽ ra một trận đồ bát quái.

- Trong truyện Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa mà nhiều người Việt mình đã gần như thuộc lòng có đoạn mô tả Gia Cát Khổng Minh giả bệnh mà không lâm triều khiến Hậu chúa Lưu Thiện rất lo sợ vì có sáu đạo quân đang hăm he tấn công Tây Thục. Qua cách thêu dệt của tác giả, ta thấy ra Khổng Minh đã vẽ trong đầu cả một cuộc cờ để đẩy lui sáu đạo quân này. Chuyện hiện đại là ngày nay người ta còn cố gắng định lượng từng yếu tố để cân nhắc rủi ro so sánh với lợi ích của cả trận đồ hầu giảm thiểu được sự chủ quan và nhất là đánh giá đúng sự hăm dọa về thiệt hại.

Vũ Hoàng: Nếu chúng tôi hiểu không lầm thì trong cuộc đấu trí này, người ta cần nghĩ đến nhiều tác nhân chứ không chỉ có hai nước trong cuộc và cái lợi luôn luôn đi cùng cái hại, và yếu tố ông gọi là rủi ro ấy có giữ một vai trò quyết định. Thưa ông có phải như vậy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa là đúng thế và mô hình đấu trí Nash/Harsanyi nêu ra một nghịch lý đáng chú ý. Đó là người ta thường lầm tưởng rằng trong cuộc đàm phán như vậy, đôi bên đều biết tiến và lùi để sau cùng nhường nhau một phần quyền lợi hầu đạt được một tỷ lệ chia chác hay nhượng bộ quân bình là 50-50, tức là đôi bên cùng có lợi, còn hơn là chẳng được gì, tức là mất cả. Nghịch lý ở đây là trong mọi cuộc đấu trí, duy nhất có một kết quả chung cuộc là tỷ lệ 65-35, tức là một phe lại được nhiều hơn. Ông Harsanyi giải thích nghịch lý mà nhà toán học John Nash tìm ra, đó là vì một phe có khả năng chịu đựng rủi ro thấp hơn và vì sợ mà nhượng bộ nhiều hơn. Chúng ta trở lại khả năng hăm dọa và xảo thuật thương thuyết của Trung Quốc.

Vũ Hoàng: Bây giờ thì có lẽ thính giả của chúng ta hiểu ra cái điểm mà ông nhấn mạnh, đó là sự sợ hãi của các nước, như sợ lỗ, sợ khổ, sợ chiến tranh, mới giúp Bắc Kinh đạt lợi thế. Và xảo thuật thương thuyết của Trung Quốc như ông trình bày kỳ trước là liên tục gây sức ép về đủ loại vấn đề làm đối phương rối trí và mệt mỏi nên không thẩm định được sự rủi ro cho chính xác.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa nôm na là họ biết tháu cáy và dọa già nên có cái thế lớn hơn cái lực, trong khi ấy, ở bên trong họ lại rối trí vì rất nhiều vấn đề nội bộ. Thực chất của vấn đề là Trung Quốc có nền kinh doanh ăn cắp, nền kinh tế ăn cướp và chính sách đối ngoại bá quyền bao trùm lên sự ung thối trong nội tạng mà vẫn cứ làm ra vẻ văn minh hiếu hòa trong đàm phán. Nếu các nước nhìn ra bản chất ấy và không nhượng bộ mà cũng chẳng hãi sợ thì chính lãnh đạo Bắc Kinh sẽ lùi vì họ biết ra và rất khéo vận dụng quy luật "mềm nắn rắn buông".

- Trở lại chuyện Việt Nam, ta thấy lãnh đạo xứ này có mức chịu đựng rủi ro thấp hơn vì sợ bị mất quyền và sẵn sàng nhượng bộ để tìm lợi riêng. Đây không phải là một sự phê phán võ đoán mà là thực tế khi lãnh đạo Việt Nam ngăn cản và cầm tù những ai biểu tình kết án Trung Quốc. Đáng lẽ phản ứng đó của người dân tạo thêm lợi thế quốc gia và quốc tế cho Việt Nam khi cần đàm phán vì phơi bày bản chất của Trung Quốc và dễ huy động công luận thế giới. Lý do là Trung Quốc có nhược điểm là cái danh, là nỗi sợ hãi bị mất thể diện. Và căn bản nhất, kinh tế xứ này rất cần thế giới chứ không thể bế môn tỏa cảng hay tự tung tự tác ở bên trong. Vì thời lượng có hạn, chúng ta sẽ còn nhiều cơ hội khác để đi vào từng chuyện cụ thể.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về cuộc trao đổi này.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.