Hôm nay,  

Đọc Ru, Những Mảnh Đời VN

01/01/201300:00:00(Xem: 9615)
RU của Kim Thúy viết về một gia đình người Việt hải ngoại. Là những hồi tưởng, những ký ức và hiện thực chồng chất lên nhau. Về cuộc đời ở Việt Nam, trước khi vượt biển, đến cuộc sống nơi xứ người ở Canada, rồi trở lại với một Việt Nam hiện tại.

Đời sống người Việt hải ngoại, buồn vui hội nhập và sau này thường có giai đoạn trở về nơi cội nguồn là đề tài đã được một số nhà văn gốc Việt ở hải ngoại viết lên. Có thể kể đến The Gangster We Are All Looking For của le thi diem thuy, We Should Never Met của Aimee Phan và Quiet As They Come của Angie Châu.

Riêng ở Canada, Kim Thúy có lẽ là nhà văn gốc Việt thứ hai với tác phẩm viết về Việt Nam thời hậu chiến, sau Nguyễn Ngọc Ngạn với The Will of Heaven được Nhà Xuất bản Dutton phát hành 30 năm trước đây.

RU chứa đựng hình ảnh ảm đạm quen thuộc ở miền Nam sau khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ vào tháng 4-1975. Nhà của tác giả bỗng dưng có cả chục bộ đội vào ở. Những người miền Bắc không quen nếp sống miền Nam nên đã nuôi cá trong bồn cầu tiêu. Một hôm cá biến mất làm họ nghi ngờ gia đình tác giả. Trở thành nạn nhân của chiến dịch đánh tư sản mại bản, gia đình Kim Thúy vượt biển và đến được trại tị nạn ở Malaysia.

RU nguyên bản tiếng Pháp được nhà xuất bản Libre Expression cho in năm 2009. Bản tiếng Anh, do Sheila Fischman dịch và Random House Canada phát hành năm 2012. Sách không dày, chỉ 141 trang, là tác phẩm đầu tay của tác giả và đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ như Anh, Ý, Tây Ban Nha, Ba Lan và cũng đã nhận được một số giải thưởng văn chương.

Tựa của tác phẩm, RU trong tiếng Pháp có nghĩa một con suối nhỏ và một cách ẩn dụ là “những giòng chảy của nước mắt, máu và tiền”, theo tác giả giải thích ở đầu sách.

Gia đình Kim Thúy vượt biển. Sau bốn tháng ở trại tị nạn, được đi Canada và định cư ở Montréal, ở đó nhận được những giúp đỡ của người bản xứ thân thương, không phân biệt giai cấp. Bố đã đi lau chùi nhà cửa, mẹ đi may gia công để nuôi các con ăn học. Tác giả cũng từng đi may, làm thông dịch viên, làm luật sư, mở nhà hàng trước khi viết văn.

Lối viết của Kim Thúy hay liên tưởng đến những sự việc và hình ảnh rồi nhảy từ hoàn cảnh này sang hoàn cảnh khác nên có lúc người đọc không nắm bắt được không gian, thời gian và tương quan nhân vật. Từ năm người con của bác sĩ Vinh được một linh mục ở Canada nuôi cho khôn lớn trong khi ông bị tù ở Việt Nam, tác giả nhắc đến người con trai Henri của mình có bệnh tự kỷ nên không nghe lời, không hiểu và tác giả cảm thấy như đã bị “đánh bại, bị lột trần, bị đánh tả tơi.”
buivanphu_20121229_ru_h01
Bìa Ru bản tiếng Anh.
Nội tâm của tác giả cũng là những xung đột của nhiều người trong gia đình. Những điều đã không thể nói ra và nay được kể lại. Từ hành vi dâm đãng của đứa con hư thân, bụi đời của dì kế Hai, đến chuyện dượng Hai, anh của mẹ tác giả, là một dân biểu đối lập có tiếng ở miền Nam, nhưng ông có vợ bé, có bồ nhí. Theo chi tiết mô tả, đó là hình ảnh của Dân biểu Lý Quí Chung, đã quá cố, thuộc thành phần thứ ba trong chính trường miền Nam được nhiều người cảm phục, nhưng khi hai người con tìm cách vượt biển bị bắt, ông đã lên án con mình.

Những điều viết ra cho thấy tác giả có ảnh hưởng bởi những nhân vật ủng hộ Mặt trận Giải phóng miền Nam. Trong các tác phẩm liên quan đến người Việt, bom đạn chiến tranh luôn ẩn hiện. Tác giả sinh ra trong những ngày Tết Mậu Thân với pháo nổ hoà trong tiếng súng. Những mô đất có gài mìn trên đường từ Sài Gòn lên Đà Lạt. Một em bé mới 6 tuổi cầm thư đi liên lạc bị những người lính “nhai kẹo cao-su” bắn chết trên ruộng lúa. Ở chỗ khác, tác giả đã nhắc đến cụm từ “bàn tay lông lá” với ý chỉ sự can dự của người Mỹ vào Việt Nam.


Chiến tranh ở Việt Nam là những giằng co trong tư tưởng. Thời chiến tranh khốc liệt tác giả lại như được sống trong hoà bình, vì gia đình có chức vị nơi thành phố. Nhưng khi hoà bình đến tác giả như đang sống với chiến tranh. Đó là những nghịch cảnh và xung đột được dàn trải khi viết về thực tế sau ngày chiến tranh chấm dứt, là một thời điểm đen tối của Việt Nam qua nhiều nét sinh hoạt đời sống. Một cách thoang thoáng, nhiều vấn đề hậu chiến được nhắc đến trong tác phẩm, từ trại học tập cải tạo, thăm nuôi đến chính sách kinh tế ngăn sông cấm chợ qua hình ảnh một đám ma giả để đưa heo đi bán.

Còn có những ẩn dụ. Khi cờ Mặt Trận nền xanh đỏ bị biến thành toàn đỏ, tác giả coi như mất đi bầu trời, như cô thiếu nữ mất quyền đánh phấn xanh trên đôi mắt. Trong nhà ảnh Hồ Chí Minh phải được treo cao hơn cả ảnh tổ tiên. Áo dài nữ sinh không còn tung bay sân trường. Học đường trở thành nơi đào tạo anh hùng giết giặc qua những bài toán dạy đếm với con số máy bay bị bắn rớt, số lính bị giết, cán bộ bị tù. Tác giả đã một thời hãnh diện đeo khăn quàng đỏ nhưng chẳng bao giờ được làm “Cháu ngoan Bác Hồ” vì lý lịch và dù có là học sinh giỏi nhất lớp cũng không được làm “thiếu nhi đáng yêu của Đảng”. Cũng chuyện lá cờ, tác giả ghi lại sự kiện chồng của cô, một người da trắng, mặc áo thun với hình cờ đỏ sao vàng đi trên phố ở Montréal đã bị một người Việt quấy nhiễu khiến bố tác giả phải yêu cầu con rể thay áo.

RU với nét khác biệt văn hoá Việt và Canada, của tà áo dài, cách người Việt biểu lộ tình thương trong gia đình hay khen trẻ em, cách đặt tên cho con là ước vọng của cha mẹ. Nhưng trong tình yêu, giữa đông và tây là những tương đồng khi Kim Thúy viết về bản thân với những người tình, yêu thế nào cho vừa, bao nhiêu cho đủ. Như dượng Hai trong gia đình có nhiều bồ.

Khi có cơ hội trở về Việt Nam làm việc, nhìn bờ tường xưa, căn nhà cũ nay bị ngăn chia ra nhiều phòng làm tác giả bùi ngùi. Chuyện đòi lại nhà loé lên trong tâm tưởng.

Những hàng quán, người bán hàng rong gợi nhớ quãng đời niên thiếu, đặc biệt là những món ăn buổi sớm mà đời sống ở Canada không có khiến tác giả bỏ hẳn ăn sáng nơi xứ người. Ở quê cũ tác giả lại nhớ Canada, nhớ mùi thơm của giấy Bounce khi sấy quần áo, nhớ mước hoa Paris chồng tặng.

Thấy một bé gái bán bán bánh mì bên đường, tác giả muốn giúp cho em có cơ hội học hành để làm việc văn phòng nhưng em từ chối. Ở quê nhà, Kim Thúy được nghe người thân kể chuyện phải đi bán dâm, dù tuổi mới lên mười, được gặp những cô gái điếm trong các quán, tác giả liên tưởng đến hình xâm trên thân thể của những cô gái Canada như là những lựa chọn của chính họ, còn với những thiếu nữ Việt dù trên thân thể không có vết xâm nhưng trong tâm hồn là những vết thương sâu kín. Với Kim Thúy, đôi vai phụ nữ Việt chịu những gánh nặng của lịch sử, thời chiến tranh với những cái chết của cha, của chồng. Thời nay là những tủi nhục xã hội.

Làm việc ở Việt Nam nhiều năm, Kim Thúy có một thần tượng. Đó là Sao Mai con của dượng Hai, tức dân biểu Lý Quí Chung. Sao Mai lúc đầu mở một tiệm bán cà-phê, bánh ngọt và được nhiều quan chức cộng sản thích ăn các thứ bánh, kem do cô tự tay làm ra. Kinh doanh phất lên, nay Sao Mai là một thương nhân thành công và nổi tiếng.

Sau ba mươi năm, sự thành công của Sao Mai được tác giả so sánh như phượng hoàng tái sinh từ tro tàn, như Việt Nam sau thời đại màn sắt và như bố mẹ đã vươn lên từ những ngày đi lau bồn cầu tiêu.

Và một ngày nào đó, quê hương sẽ là những lời ru êm đềm. Một ước mơ đẹp của tác giả. Cho thế hệ tương lai.
© 2012 Buivanphu.wordpress.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.