Hôm nay,  

Về Thăm Kinh-Đô Huế

02/03/201300:00:00(Xem: 12145)
Mẹ tôi gốc Hà-Nội còn Bố là người Nam-Định; di-cư 1954 vào Nam. Gần chục năm sau tôi được sinh ra ở nhà thương “Hà-Đông-Hà” vùng Tân-Định, thành-phố Saigon. Là một trong những thuyền nhân tỵ-nạn sau biến cố 1975; lấy quốc-tịch Úc rồi sang Hoa-Kỳ định-cư từ 1991 đến nay; cả trăm lần về Việt-Nam làm phim tài-liệu và đi giúp người nghèo khắp ba miền đất nước: Bắc, Trung & Nam.

Hình ảnh quyến-rũ và ghi đậm nhất trong tôi lại chính là xứ sở miền Trung trầm mặc u-hoài có kinh-đô Huế với giòng sông Hương và núi Ngự-Bình cùng rất nhiều đền đài lăng tẩm.

Thành phố Huế nằm về phía Bắc đèo Hải-Vân, cách Đà-Nẵng 112 km, xa biển Thuận-An 14 km, từ phi-trường Phú-Bài đến Huế độ 14 km và cách Cảng nước sâu Chân-Mây 50 km. Phía Bắc và Tây giáp thị-xã Hương-Trà, Nam giáp Hương-Thủy, Đông cùng giáp Hương-Thủy và huyện Phú-Vang.

Qua nhiều tài-liệu sưu-tầm, tôi được biết rằng: Vùng đất xây-dựng nên kinh-thành Huế nguyên là một địa-hình được sắp đặt lại bởi công sức lao-động của hàng vạn dân binh. Dưới thời vua Gia-Long, người ta điều-chỉnh lại "vương đảo” Phú-Xuân, lấp giòng Kim-Long cũ, đào mới một loạt các sông Ngự-Hà, Đông-Ba, An-Hòa, Bạch-Yến để tạo ra một thế đất cân đối bên Hương giang ngày nay. Đối diện với tiền-án núi Ngự, hai bên có Cồn Hến Tả Thanh-Long (con Rồng xanh bên trái) và cồn Giã-Viên Hữu Bạch-Hổ (con Cọp trắng bên phải) trong thế hài-hòa rất tự-nhiên; đến nỗi ít người nhận ra xưa kia là cả một quá trình gian-khổ xẻ đất, lấp sông của con người.
diamond_bich_ngoc_hue_duong_trinh_cong_son
Diamond Bích Ngọc ở Thành Nội Huế; đường mang tên Trịnh Công Sơn.
“Đất Thần kinh trai hiền gái lịch
Non xanh nước biếc, điện ngọc đền rồng
Tháp bảy tầng, miếu Thánh, chùa Ông
Chuông khua Diệu-Đế, trống rung Tam-Toà
Cầu Tràng-Tiền mười hai nhịp bắc qua
Tả Thanh-long, hữu Bạch-Hổ đợi khách âu ca thái-bình.” (Ca Dao)

Trung-tâm Huế có Thành nội và Đại nội:

Đại nội: với Hoàng-Thành, Tử-Cấm-Thành và hàng trăm công-trình kiến-trúc tinh-xảo, sơn son thiếp vàng, bố-trí cân-xứng thể-hiện nghiêm-ngặt trật-tự và uy-thế chốn cung-đình.

Thành nội: có Kỳ-Đài vững-chãi, uy-nghi, gồm 10 cổng đối xứng, hệ-thống các dinh-thự như Lục-Bộ, Cơ-Mật-Viện, Quốc-Tử-Giám, Tàng-Thư-Lâu...Phản ánh được bộ mặt sinh-hoạt chính-trị, văn-hóa chốn kinh-kỳ của một thời oai-phong lẫm-liệt. Nơi đây cũng là chứng-tích ghi dấu sự có mặt của nhiều thế-hệ danh-nhân đất nước ta như: Nguyễn-Du, Nguyễn-Công-Trứ, Cao-Bá-Quát, Bà Huyện Thanh-Quan, Phan-Thanh-Giản, Nguyễn-Tri-Phương, Hoàng-Diệu, Tôn-Thất-Thuyết, Phan-Bội-Châu, Phan-Chu-Trinh…

Phong cách kiến-trúc tinh-tế của cung-đình Huế còn thể-hiện ở một số lăng tẩm nằm ẩn mình trong vùng đồi núi ven hai bờ sông Hương thuộc phía Tây-Nam kinh-thành. Các lăng vua triều Nguyễn khá bề-thế theo hệ-thống sân chầu; tẩm điện, bi-đình, bảo-thành; đồng thời lại vận-dụng hình-thái xây-dựng như cung điện, có cả hồ sen, lối dạo, tùng-viện, thủy-tạ, đình-quán; đôi khi còn thêm nhà đọc sách, nhà hát, trường bắn của vua như lăng Tự-Đức.

Mỗi lăng vua là một phong-cách kiến-trúc riêng, thể-hiện một phần những yếu-tố triết-lý, tâm- linh và giá-trị thẩm-mỹ cá-biệt; không gợi lên cảm xúc đau buồn thương tâm về cái chết, ngược lại nơi đây là một chốn thanh-nhã để du khách tham-quan, ngắm nhìn và suy-tuởng.

Gắn với kinh-thành, cung-điện, lăng-tẩm còn có các đền miếu, Đàn Nam-Giao, Đàn Xã-Tắc, điện Hòn Chén, chùa Thiên-Mụ, chùa Túy-Vân và rất nhiều danh-lam cảnh tự ở kinh kỳ…

diamond_bich_ngoc_hoang_cung_hue
Chàng và nàng trong bộ triều phục Hoàng đế và Hoàng hậu.
Nằm giữa những vùng dân cư có nhiều phủ đệ, đình miếu, nhà vườn nên người xứ Huế nhiều đời gắn bó với mảnh đất cố-đô được thấm nhuần giá-trị truyền-thống lễ-nghi, vì vậy họ còn lưu-giữ khá đậm nét những tính-cách, phong-tục, tín-ngưỡng một thời của vùng đô-thị cổ Việt-Nam cách đây nhiều thế kỷ:

“Người xứ Huế trang nghiêm và thầm lặng
Thường hay sầu giữa lúc thế nhân vui
Tâm sự nhiều mà ít hé trên môi
Thanh lịch thay bạn văn nhân xứ Huế!”
(trích thơ của Thi-Sĩ Bạch-Lan)

Lần này về thăm Huế, phòng trọ chúng tôi ở ngay bên giòng Hương giang, nhìn sang bên trái thấy cầu Trường-Tiền, đối diện là cồn Hến, thỉnh-thoảng những bóng dáng con thuyền thơ mộng lướt nhè nhẹ, êm-ái, lặng-lẽ trên sông:

“Giòng nước Hương-Giang chảy lặng-lờ
Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ
Gió cầu nghiêng áo nàng Tôn-Nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ” (Ca-Dao).

Một buổi sáng loanh-quanh phố-phường, tình cờ nhìn thấy con đường mang tên Trịnh-Công-Sơn. À! Thì ra Huế mộng, Huế mơ là quê-hương của cố nhạc-sĩ này; nơi mà bản nhạc “Diễm-Xưa” ra đời; theo như Hoàng-Tá-Thích (em rể TCS) đã kể rằng:

“...Ngày ngày người con gái mang tên Diễm trong chiếc áo lụa trắng của trường Đồng-Khánh, vẫn thường đi ngang, băng qua cầu, rẽ tay mặt về nhà. Hình ảnh nàng thùy mị mang nét kín cổng cao tường rất cổ điển đó đã làm cho anh không ngày nào là không nhìn xuống đường chờ đợi: Lụa áo em qua phủ mặt đường

Gót nhỏ xanh xao tựa khói sương.

Diễm mang đến cho anh một mối tình nhẹ nhàng và lãng mạn như hai chữ Diễm xưa. Có hôm thức dậy muộn, nhìn thấy bên cửa sổ cài một nhành dạ lý hương, anh biết người đẹp đã đi qua nhà mình. Và mỗi lần thức dậy anh đều mong nhìn thấy cành hoa cài trên cửa: "Chiều nay còn mưa, sao em không lại, nhớ mãi trong cơn đau vùi, làm sao có nhau, hằn lên nỗi đau, bước chân em xin về mau…"

Chúng tôi được dịp ghé đến “Royal Park Restaurant”; một nhà hàng tọa-lạc trên thôn Vỹ-Dạ với lối kiến-trúc cổ-điển, có cung lầu và vườn thượng-uyển cùng những bức tượng quan-quân u hoài trầm mặc; tôi và phu-quân được khoác Long Bào của Vua và Hoàng-Hậu như một thời Phong-Kiến xưa, thưởng-thức các món Phượng-Hoàng, Long-Quân khai-vị, Nem-Công-Chả-Phụng tuyệt-hảo và thích nhất khi xem trình diễn “nhã nhạc cung-đình” trong một không-gian rất Huế, rất hoàng-triều. Đúng như ý bài thơ của Đinh-Thu đã giới-thiệu về nơi chốn này:

“Đến đây trông bóng người xưa
Cung ngà điện ngọc nắng mưa một thời
Tìm riêng mình phút thảnh thơi
Quên đi hiện tại nghiệp đời mênh mang
Dìu hồn vào cõi mơ màng
Lắng trong quá khứ son vàng từ tâm”

(Link: http://www.royalpark.com.vn/Home )

Cảm-ơn Huế cho một lần trở lại rất trữ tình. đáng ghi nhớ, đáng mến, đáng yêu. Xin viết lại bài ca-dao dưới đây để gửi tặng phu-quân tôi và cho tất-cả những đôi uyên-ương của Huế chan hòa yêu thương & ngàn đời thơ mộng:

“Khi nào cạn nước Đồng-Nai
Nát chùa Thiên-Mụ mới sai lời nguyền!
Tay bưng dĩa muối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau!
Núi Ngự-Bình trước tròn sau méo
Sông An-Cựu nắng đục mưa trong,
Đôi ta nguyện kết chữ đồng
Đá mòn sông cạn mà lòng thủy-chung!
Dãy dọc tòa ngang, giàu sang có số
Kim-Long, Nam-Phổ, nước đổ về Sình
Hai đứa mình gá nghĩa ba sinh,
Dẫu có mần răng đi nữa, hai đứa mình không thể bỏ nhau
Đôi ta kết nghĩa vợ chồng
Đá mòn, sông cạn mà lòng thủy-chung!” (Ca Dao)

www.diamondbichngoc.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.