Hôm nay,  

Hoa Hàng Xóm

09/04/201300:00:00(Xem: 13667)
Mùa Xuân ở Nam Cali thật tuyệt vời khi mặt trởi óng ả trên các ngọn cây và tiếng chim líu lo trên cành lá. Cuộc sống trong khu vưc tôi ở giữa hai thành phố Westminster và Garden Grove, California hình như bừng lên những âm thanh rộn rã lúc mà mọi người trong xóm thường đi bộ mỗi buổi sáng trên những con đường ấm áp đầy hoa trái mùa xuân.

Nhìn những ông bà, cha mẹ đưa con đến trường.Những em bé ríu rít, tung tăng theo bố mẹ ra xe. Những cư dân, Mỹ, Mễ. Việt gặp nhau chào hỏi vui vẻ, thân thiện làm ai ai cũng cảm thấy hãnh diện vì được sống trong một đất nước, một xã hội đầy ấp tình thương và an bình.

Trên đường đi, những vườn hoa nhỏ xinh xắn, những chậu hoa, những giỏ hoa lan đủ màu sắc treo trước nhà hay bên cửa sổ. Con đường đầy hoa vô tình đưa tôi trở về thời hoa niên mơ mộng.Bên vách tường nhà ai là những bông hoa giấy đủ màu sắc. Những cụm hoa bông giấy màu đỏ thẩm gợi nhớ bao kỷ niệm mùa hè phượng đỏ rực rỡ ở Huế, ngân lên những cảm xúc nhẹ nhàng của tuổi học trò như dòng Hương Giang ngàn năm xuôi về phá Tam Giang rồi ra biển.

Tiếp theo là những hoa tím đua nhau khoe sắc tràn ngập cả lối đi làm nhớ lại bài thơ Màu tím hoa sim” của Hửu Loan. Hình ảnh những đồi hoa sim lại hiện về khi tôi cùng bạn bè rong ruổi đạp xe qua các vùng đồi núi miền Trung Việt Nam trong các dịp nghỉ hè.

Có những bông hoa nhỏ xíu không tên đủ màu sắc, mọc trong hốc đá, len lỏi giữa hàng rào hoặc chen chúc trong các sân cỏ xanh làm trái tim tôi rung động vì cái màu tim tím đó.

Tất cả những hoa đẹp trong mùa xuân nầy phần đông đều là do bàn tay mềm mại chăm sóc của các bà nội trợ sau thời gian rãnh rỗi.Đây không phải là những loại hoa chọn lọc được trồng theo thiết kế tại các vườn hoa nổi tiếng tạo thành một tấm thảm hay một bức tranh đầy màu sắc để bán hay cho du khách chiêm ngưỡng. Hoa hàng xóm đơn sơ, mộc mạc nhưng là những tác phẩm của những cư dân sống trong vùng và tùy thuộc vào văn hóa của mỗi gia đình và sự ưa thích của mỗi dân tộc.

Người Viêt Nam, ngoài trồng hoa lại thích trồng thêm vài cụm rau thơm hay vài cây ớt hiểm.Nhờ khí hậu tốt nên miền Nam cali quanh năm suốt tháng đều có rau xanh, cây trái, hoa quả. Người Việt Nam đi đâu cũng mang theo quê hương và rồi biến nơi mình ở thành quê hương thứ hai.Ngoài rau trái, đường sá ở quận Cam thỉnh thoáng lại có những tà áo dài với chiếc nón lá hay những chiếc áo bà ba căn đầy sức sống trong những ngày hội, ngày Tết.
hoa_hang_xom_nien_truong_3_nguoi
Hình niên trưởng. NT Nguyễn Bá Trang,NT Nguyễn Xuân Sơn và phu nhân. Hình của Tam Giang.
Nhờ nắng ấm nên hằng năm các hội đồng hương, hội các trường xưa ở Việt Nam, hội cựu quân nhân các Quân Binh Chủng VNCH thường tìm về Nam Cali để hội ngộ với những Đặc San thơ văn đầy ắp tình bạn, tình chiến hữu, tình thầy trò, tình đông hương.

Tôi lại nghĩ về những mùa hè của tuổi trẻ thời mới vào lính đi thực tập trên các chiến hạm.Bây giờ gặp nhau, bao nhiêu câu chuyện được bạn bè miên man kể theo dòng thời gian, từ chuyện đi thật xa qua Mỹ lãnh tàu, sửa chữa tàu cho đến những chuyến huấn luyện thực tập ngoài khơi.Lúc đó hình ảnh màu xanh của biển, màu áo xanh của người lính làm việc và chiến đấu vẫn còn in sâu trong trí nhớ.

Có những chiếc áo xanh ướt đẩm mồ hôi của những thủy thủ dưới cái nắng chói chang để gỏ sét trên bong tàu.Có những chiếc áo xanh ướt đẩm mồ hôi và máu bên các khẩu đại liên 30, 50 hay bên các khẩu đại bác 20 ly, 40 ly, 76 ly, 127 ly khi đối mặt với quân thù.Nhưng cũng có những người lính biển dạng dày gió sương nhưng khi bước chân lên các đảo Hoàng Sa,Trường Sa bạt ngàn gió biển cùng muôn cánh chim lạ thì lại trở nên vụng về, ngây thơ như đang lạc vào chốn thần tiên của hoang đảo.

Còn nhiều câu chuyện để kể về người lình biển VNCH như những ngày tuần tiểu Hoàng Sa và Trường Sa, những ngày ra các đảo ấy dựng bia chủ quyền.Những ngày tháng đó, những công việc quen đó, đọng lại thành kỷ niệm cho những thủy thủ già xa quê hương. Đó là những dòng chảy bền bỉ theo thời gian dù đã gần 40 năm dài xa cách.


Màu xanh của người lính biển ngày xưa và màu xanh hoa lá cành của nhiều người Việt đang sinh sống dù bất kỳ ở nơi đâu nhiều lúc găp nhau và giao thoa. Khi nghe tin ngày 20/3/2013 một tàu đánh cá của VN bị tàu Trung Cộng bắn cháy khi đang hành nghề tại Hoàng Sa, người Viêt Nam nào nghe tin nầy mà không đau xót.

Tôi còn nhớ, năm 1963-1964, khi phục vụ trên Hộ Tống Hạm Vạn Kiếp (HQ 02) dưới đời Hạm Trưởng HQ Đại Úy Bùi Huy Phong, chiến hạm đươc biêt phái ra Hải Khu Đà Nẵng.Chỉ huy trưởng Hải Khu lúc bấy giợ là Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Bá Trang.Lúc đang tuần tiểu ngoài khơi Đà Nẩng thì được lênh của Hải Khu ra Hoàng Sa để bắt một số ghe đanh cá của Trung Cộng đang đánh cá tại Hoàng Sa.Tin tức nầy có được nhờ phía Mỹ báo cho Vùng 1 Chiến Thuật và Vùng 1 báo cho Hải Khu Đà Nẳng.Chiến hạm liền trực chỉ Hoàng Sa.

Đây là những ghe đánh cá của các hợp tác xã ngư nghiệp Trung Cộng đi từ đảo Hải Nam xuống biển Đông.Các ghe đánh cá nầy dài khoảng 30 mét, rộng 4 mét làm bằng gỗ, chạy bằng buồm.Hằng năm theo gió mùa Đông-Bắc (từ tháng 9 đến tháng 12), các ghe đánh cá nầy căn buồm chạy xuống đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Khi đã đến vùng Hoàng Sa thì họ kéo buồm xuống và dùng chèo để di chuyển và đánh bắt cá.Gặp lúc biển động, họ neo ghe gần đảo rồi đổ bộ lên đảo trú ẩn.Đến mùa gió Đông-Nam (từ tháng 5 đến tháng 9), khi ghe đầy tôm cá, họ lại căn buồm theo gió chạy trở về lại đảo Hải Nam.

Lúc bấy giờ chiến hạm đã cho người xuống ghe khám xét.Trên ghe có khoảng 10 ngư dân, ngoài dụng cụ đánh bắt cá, ghe có những hầm chứa cá khô, hầm nước ngọt.Nhiều bao muối để muối cá và những bao gạo, bắp khô và những bao củ cải muối để làm lương thực trong nhiều tháng. Cá tôm bắt được đều làm sạch phơi khô, sau đó ướp với muổi hột rồi chất đầy trong các hầm trống.Thời đó, ngư dân Trung Cộng trông ốm yếu và thiếu quần áo. Sau khi làm các thủ tục khám xét, chiến hạm đã đưa các ghe đánh cá nầy về giao cho Hải Khu Đà Nẵng.

Ngày 2-4-2013, nhân khi găp mặt cựu HQ Đại Tả Nguyễn Bá Trang vá cựu HQ Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn tai Nam Cali, tôi có hỏi NT Trang về viêc băt giữ và cách giải quyết các ghe đánh cá của

Trung Cộng tại Hoàng Sa thời đó thì NT Trang cho biết: “Hải Khu Đà Nẵng đã đối xử tử tế với các ngư dân Trung Cộng, giúp họ thực phẩm tươi nhất là thuốc lá. Sau đó chính phủ VNCH qua trung gian Lảnh Sự Quán Anh tại Đà Nẵng đã can thiệp.Cuối cùng các ghe của Trung Cộng và nhân viên vi phạm được thả về lại Hải Nam”.
hoa_hang_xom_hoa
Hình hoa California.
Trong thời gian tuần tiểu vùng đảo Hoàng Sa, các chiến hạm VNCH thường găp nhiều ghe đánh cá của ngư dân Đà Nẵng và ngư dân đảo Lý Sơn còn gọi là cù lao Ré thuộc tỉnh Quảng Ngãi.Dân cư cù lao Ré ngoài làm nghề cá còn có nghề trồng tỏi và trồng hành.Các chiến hạm VNCH thường neo tại cù lao Ré để đi chợ và nghỉ ngơi.Đây cũng là dịp các thủy thủ trên các chiến hạm làm quen với các cô thiếu nữ trên đảo.

Những năm sau tôi lại đi chiếc Hải Vận Hạm Hương Giang (HQ 404) mà Hạm Trưởng lần lượt là Hải Quân Đại Úy Nguyễn Quang Dật và Hải Quân Đại Úy Võ Duy Ninh. Chiến hạm HQ 404 biệt phái ra Đà Nẳng để tiếp tế và chở các Đại Đội Địa Phương Quân ra trấn giữ đảo Hoàng Sa hoặc chở họ về Đà Nẵng sau sáu tháng ở đảo. Tôi cũng đã nhiều lần lên đảo Hoàng Sa, nhưng thời đó, ngoài những dãy nhà tôn cho đại đội ĐPQ và đài khí tượng còn có một cái miểu nhỏ xây cất từ thời nhà Nguyễn.Toàn bộ đảo là một dãy cát vàng dài chưa tới 500 mét với nhiều cây cỏ thấp trong đó nhiều nhất là cây mắc cỡ.

Cây mắc cỡ thân có gai, ban đêm lá xếp lại hoặc khi ta chạm vào cây thì toàn bộ lá xếp lại như các cô gái xuân e ấp, thẹn thùng gặp người yêu.Hoa mắc cỡ là loài “Mimosa Pudica”có lông tơ mịn và màu tím nhạt hay gọi là hoa trinh nữ thẹn thùng nhưng kiêu sa.

Bây giờ ngồi trên đất Mỹ, nhìn hoa hàng xóm và nhớ lại hoa trinh nữ trên đảo Hoàng Sa mà lòng thấy xót xa cho một đất nước Việt Nam thân yêu.

Tam Giang Hoàng Đinh Báu

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.