Hôm nay,  

Tiếng Nước Tôi

18/05/201300:00:00(Xem: 8193)
“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời người ơi…”. Đó là tiếng hát khởi đầu cho bản “Tình Ca” sáng tác năm 1952 của người nhạc sĩ tài danh vừa ra đi... về với cội nguồn đầu năm nay 2013.

Bài “Tình Ca” đã dính liền với quê hương tuổi thơ và tôi yêu tiếng nước tôi chân tình: “Mẹ hiền ru những câu xa vời. À ơi! Tiếng ru muôn đời”. Tiếng nước tôi! Lời thơ ý nhạc ấy đã là những bước sơ giao xây đắp mối tình đầu của tôi với quê hương nghèo khó. Lời mẹ ru ngân nga như sẵn mùi lúa chín bạt ngàn, tiếng xưng hô lễ phép rộn ràng của đàn trẻ nhỏ trong thôn xóm và cử chỉ khúm núm dạ vâng, vái chào từ đám dân cầy khi ngài chánh tổng về làng tham quan...

Xa quê hương đã lâu, bao năm tháng sống nhiều nơi trên xứ người, mỗi chặng đường dù dài hay ngắn, tôi đều cố gắng đến trường, học ngôn ngữ của nước họ nhưng luôn luôn tự nhủ lòng, sẽ không bao giờ quên tiếng nước tôi. Tiếng Pháp, tiếng Anh, Tây Ban Nha và cả Ả Rập xứ ngàn lẻ một đêm... nhưng tất cả đều chỉ bám ngoài da thịt bởi “tiếng nước tôi” đã luân lưu trong huyết quản từ khi tôi mới chào đời qua ca dao, câu hò tiếng hát...

Hơn sáu mươi năm nổi trôi trong cuộc đời, chữ nghĩa cũng thăng trầm theo ngày tháng... sống và nghĩ đã chuyển đổi cái nhìn của tôi về câu chuyện “tiếng nước tôi”. Khi xưa chưa biết ngoại ngữ, không có gì để so sánh nhưng bây giờ, nhiều lúc phải nặng đầu, chật vật với cách xưng hô, tôi cảm thấy cách đối đáp của tiếng Việt ứng dụng khó khăn mặc dù trong lòng “tiếng nước tôi” vẫn êm ái, dịu ngọt như thuở ban đầu...

Với cách diễn tả của người ngoại quốc, chủ từ rất dễ sử dụng và ít đụng chạm chẳng hạn như tiếng Pháp: je, tu, il (elle) số nhiều: nous, vous, ils (elles) và tiếng Anh: i, you, he (she) số nhiều: we, you, they. Họ dùng trong tất cả trường hợp không phân biệt ngôi thứ, tiềm ẩn sự bình đẳng của mọi cá nhân trong gia đình hay ở ngoài học đường, xã hội. Giai cấp hoàn toàn không thể hiện mà vẫn giữ được ý tứ lễ độ.

Ngược lại, “tiếng nước tôi” phức tạp hơn! Quá nhiều chủ từ mà “sai một ly đi một dặm” vì gây hiểu lầm dẫn đến sự khinh bạc ngay lúc đầu gặp gỡ nếu vô tình không phát ngôn đúng đắn. Chủ từ tiếng Việt sắp xếp theo thứ bậc cao thấp trong gia đình hay quan hệ ngoài xã hội... mang sẵn vai vế từ địa vị, tuổi tác đến nghề nghiệp và giai cấp. Bao nhiêu thứ bậc, bấy nhiêu chủ từ... đếm không hết chẳng hạn như: thầy, cha, cụ, ông, bà, chú, bác, anh, chị, em, cô, cậu, con, cháu, chắt, tôi, tớ, mày, tao, v..v...

Chúng ta thường ngập ngừng trong cách xưng hô, so đo chọn đại từ “mô” khi đứng trước mọi người để “cái tôi” không “bé” quá mà hội được đủ hai phần: nửa trong khiêm tốn, nửa ngoài kiêu căng! Muốn dễ dàng, chúng ta phải biết rõ thành phần nào đang tiếp xúc chẳng hạn bậc trưởng thượng, “cấp” đàn anh hay “tụi” đàn em và gặp gỡ trong hoàn cảnh nào? Môi trường gia đình khác chốn học đường và nơi công chúng...

Mỗi nhân vật mang sẵn một chủ từ đúng với một người hay nhóm người này nhưng lại không nhất thiết thích hợp cho nhóm kia vì có lúc phải “liệu cơm gắp mắm” tùy thuộc vào sự liên hệ của từng ca nhân. Chưa hết! Khi dùng chủ từ nào, người Việt thường kèm theo một thái độ trong hoàn cảnh đó: gặp người trên khúm núm rụt rè, tiếp cận kẻ dưới thì lạm dụng ngược đãi. Thói quen ấy không thể coi là đức tính khiêm tốn mà ăn sâu vào dân gian như một tệ đoan cần sửa đổi.

Chữ “tôi” là chủ từ tổng quát nhưng người ta hay tránh nó khi đã có sự quen biết thân tình hoặc tuổi tác xấp xỉ. Họ gọi chệch ra thành “cậu” với “tớ”, “bạn” với “mình”, “tao” với “mày” hay ảnh hưởng chữ nghĩa “Phú Lang Sa”, một số gọi nhau bằng “toa” với “moa” đượm chút “giang hồ”cho bớt đi cái “lạnh lùng” của chữ “tôi” nghe sao cứng rắn và khuôn phép! Hai chữ này dễ bầy tỏ sự thân thiện dung hòa nhưng vì bắt nguồn từ gốc thực dân nên không có sức truyền bá hấp dẫn.

Trường hợp chênh lệch nhau nhiều thế hệ, một ông y sĩ trẻ hành nghề tại khu Little Saigon, ỷ vào chức nghiệp “lương y như từ mẫu” mà không cần biết trên dưới, chẩn bệnh các cụ thọ trăm tuổi như bố tôi, nói tiếng Việt bâng quơ “without” chủ từ hoặc bắt buộc thì “phang” hai chữ “ông” với “tôi” là có vấn đề! Sự việc ấy không khỏi làm tôi buồn lòng cho thế thái nhân tình tại một xứ sở văn minh biết nể trọng người già. Ở Việt Nam, nhận thấy chỉ mình ông quan tòa là dùng chữ “tôi” dõng dạc mà không bị xã hội phê bình vì từ cổ đến kim, không ai nghe: “cháu kết tội bác 10 năm tù...” cả. Ấy chỉ là một phần nhỏ những khó khăn khi dùng chủ từ “tiếng nước tôi”.

Đôi khi, cố tình tránh nó vì “cái tôi” nào cũng kém “thân mật” nên dùng chính tên của mình làm chủ từ cho “nhẹ gánh” nhưng thực tế, không phải tất cả trường hợp đều thích ứng... Đa số người Việt ngại ngùng tự xưng vai vế khi mới quen, càng e dè hơn lúc tuổi đời đã cao. Tuy vậy, không thiếu những kẻ chỉ muốn làm “anh chị” người khác ngay từ lúc vừa gặp. Họ tự suy đoán “già” hơn tuổi hoặc ghép mình vào một sự quen biết mơ hồ để xưng “anh, em, chú, bác...” tỏ nét bình dân thân thiện nhưng lại thích “ở trên nhìn xuống” mà ít kẻ muốn “đứng dưới nhìn lên”. Đây là vấn đề tế nhị liên quan tới giáo dục, tâm lý, tính tình hay dân sinh... rất khó phân tách.


Xưng “em” thì khiêm tốn! người nhận mà từ chối cách gọi cũng dễ dàng chỉnh lại nhưng nếu thái quá thì lại bị người đối diện khinh thường cho là giả dối. Ngược lại, cách xử sự “bề trên” trịch thượng trong giao thiệp sẽ không thể đi xa hơn vài ba câu chào.

Có những trường hợp rất lạ, không sao cắt nghĩa rõ căn nguyên: Tôi gặp vợ chồng bạn của ông anh một người bạn nhân dịp hội hè, chồng Nam vợ Bắc, cả hai đều có trình độ, người chồng hơn tôi 2, 3 tuổi, vợ kém tôi cũng 2, 3 tuổi nhưng ngay từ buổi đầu gặp gỡ dù đầu đã hai thứ tóc, chồng xưng “anh” gọi tôi là “em”, vợ kêu tôi là “chú em” ngọt lịm vì tự ý coi tôi ở vai vế thấp, bạn của em ông kia! Họ tưởng tượng một sự giao lưu thân mật mà tôi hoàn toàn không cảm nhận. Dù đánh giá sự trơ trẽn ấy vô ý thức, tôi cũng chịu thua không chuyển đổi được thái độ khiếm nhã của họ nên chỉ còn biết lánh xa...

Tiếng Việt có chiều dài nghìn năm văn hiến. Lịch sử ấy là một niềm hãnh diện nhưng cố chấp nếu nghĩ là không cần chỉnh đốn. Thế giới cũng đang thay đổi chủ từ cho thích hợp chẳng hạn đầu năm 2012 vừa qua, chính phủ Pháp đã ra thông cáo bỏ chữ “cô” mademoiselle trong mọi giao dịch giấy tờ vì người nam và nữ đã thực sự coi như bình đẳng ở xã hội Tây phương. Con trai khi lớn lên thành “ông” Monsieur thì con gái sẽ thành “bà” Madame, không cần biết “cô” ấy có chồng hay không! Ở Âu châu bây giờ, người vợ không cần lấy họ chồng khi lập gia đình như thông lệ cũ do ảnh hưởng từ sự bình quyền vậy thì tại sao chúng ta không ý thức để bổ túc cách dùng chủ từ tiếng Việt cho dễ dàng hơn?

Trên đất nước chúng ta hôm nay, những cô gái tuổi đôi mươi gọi các cụ ngoài bẩy mươi là “anh” xưng “em” trong nhiều dịch vụ... nhìn và nghe sao thấy chói tai dị hợm! Đại từ cố ý bị xào xáo vì đồng tiền đang làm chủ xã hội... bất chấp cả đạo đức tình cảm con người! Họ sử dụng từ ngữ như “mỹ nhân kế”, nhắm thẳng vào tính dục bẩm sinh một cách trơ trẽn để mua bán, quyến rũ những “dê già gặm cỏ non” thì hiển nhiên sẽ dẫn xã hội vào chốn sa đọa. Lắng lòng mà nhận xét kỹ thì vô hình chung, nó sẽ trở thành khí giới âm thầm kéo sập cái chủ nghĩa xã hội bất chính đang u mê đi giật lùi...

Trong vùng Little Saigon, thỉnh thoảng dắt bố tôi đã trên trăm tuổi đi ăn trưa ở nhà hàng. Cô tiếp viên tuổi còn học sinh, ngây thơ gọi cụ là chú, tôi mỉm cười thông cảm và hoàn toàn không để tâm trách cứ cho sự khó khăn của tiếng mẹ đẻ khi tuổi trẻ sống nhiều năm xa quê hương. Cái bẫy ấy người Việt thường bị “loạn” bởi vì tổ tiên đã để lại một gia tài ngôn ngữ véo von thánh thót như tiếng chim nhưng chủ từ lại phân chia và cách ứng dụng dựa vào cả sự xét đoán thuộc cảm tính riêng tư của mỗi người nên rất dễ sai lầm.

Phần cuối cùng mà tôi muốn đề cập là chuyện giai cấp có sẵn trong cách xưng hô của “tiếng nước tôi” tỉ dụ ngài thẩm phán, ông kỹ sư, vị giáo sư, phu xích lô, người dân cầy, đứa ăn mày, kẻ giúp việc, ông anh, thằng em, v..v... Trong gia đình, chồng luôn luôn vai anh, vợ là em, con trai trên hàng con gái và khi áp dụng “quyền huynh thế phụ” người anh chị cả sẵn tính ích kỷ hay từ bi sẽ giữ vai trò lãnh đạo độc tôn... sự bạo hành ít nhiều phải sẩy ra trong hoàn cảnh ấy.

Giai cấp thường chiếm hữu đời sống con người. Bản tính họ tham lam, thích lạm dụng danh xưng và quyền hành để “ăn trên ngồi chốc” nên giai cấp chính là phương tiện thỏa mãn lòng bất nhân ấy. Những chính thể văn minh trải qua nhiều kinh nghiệm đẫm máu nên hiểu rõ và chỉnh đốn vấn đề phức tạp của xã hội. Họ thiết lập hệ thống luật pháp tương đối nhân vị công bằng để giai cấp ngủ yên, né tránh cách mạng. Sự việc trên vẫn còn đúng cho nhiều quốc gia trên thế giới hôm nay kể cả Việt Nam.

Ở đâu có giai cấp là ở đó dễ dàng phát triển sự bất công và nhiều cơ duyên đi đến quá khích để cách mạng bộc phát. Đảng Cộng Sản thế giới cũng từ nguyên nhân này mà khởi động đấu tranh giai cấp vào thế kỷ 20 nhưng hiện nay thì chủ nghĩa ấy đã tàn lụi. Chỉ còn vài ba nước, không may có cả đất nước tôi vẫn bị cai trị bằng bạo lực, đang biến dạng trở thành giai cấp tư bản đỏ “man rợ” nên chính họ sẽ là đối tượng của dân tộc đấu tranh.

Tiếng nước tôi khi xưng hô, tiềm tàng sẵn ý tưởng giai cấp phân chia trong cách sử dụng đại từ nên dân tộc Việt Nam kể từ thời lập quốc, đa số chưa rõ quan niệm sơ đẳng về dân chủ vì thế chúng ta có nên cảnh tỉnh để chỉnh đốn “tiếng nước tôi” ngay lúc này? Một câu hỏi cần giải đáp dù muộn vẫn còn hơn không! Tôi ước mong những nhà ngôn ngữ học của nước mình phát minh ra vài chủ từ đơn giản để xưng hô như tiếng nước ngoài? Khó chăng có lẽ chỉ là thời gian cần thiết để thanh âm mới trở thành thói quen trong ngôn ngữ dân tộc...

Thay đổi cách xưng hô theo tinh thần dân chủ, công bằng để mang lại hạnh phúc cho dân tộc bởi vì “Tiếng Việt còn, Dân Tộc còn”. Hoài vọng một nếp sống thảnh thơi không chà đạp con người qua tiếng xưng hô mới, giản dị mà dễ bắt nhịp cầu thông cảm!

Cao Đắc Vinh (5 / 2013)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.