Hôm nay,  

Sợ Bắc Kinh, CSVN Nặng Tay Với Hai Sinh Viên Yêu Nước

22/05/201300:00:00(Xem: 6303)
Ngày 16 tháng 5 vừa qua, CSVN đã đưa hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha ra xử tại tòa án tỉnh Long An về tội tuyên truyền chống phá nhà nước chỉ vì đã phát truyền đơn chống bá quyền Trung Quốc. Bản án khá bất ngờ đối với dư luận Việt Nam và Quốc Tế: 6 năm tù giam cho Phương Uyên và 8 năm tù giam cho Nguyên Kha.

Cùng ngày hôm đó, ông Nguyễn Tiến Chỉnh, Trưởng ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản CSVN (Vinacomin) mở cuộc họp báo trình bày về tình hình khai thác Bauxite tại Tây Nguyện. Lời tuyên bố của ông Chỉnh đã làm cho công luận sửng sốt: “Chúng tôi đã tính đến việc dừng Dự án Bauxite Nhân Cơ nhưng nói thật lòng không dám, vì những hậu quả phải gánh vác rất khó khăn.”

Tuy hai sự kiện xảy ra mang hai nội dung hoàn toàn khác nhau, nhưng lại có cùng một bản chất liên quan đến lề lối ứng xử của lãnh đạo CSVN trong tình hình hiện nay.

Sợ Bắc Kinh, Không Dám Ngừng Dự Án Bauxite.

Ông Nguyễn Tiến Chỉnh giải thích thêm lý do không dám ngừng dự án Bauxite là vì “Ngồi trên đống tiền đầu tư (18,000 tỷ đồng cho hai dự án), nhà máy đã xây dựng, thiết bị, công trình nằm ngổn ngang, hợp đồng với các đối tác cũng đã ký. Vậy nếu dừng lại thì thiệt hại lớn như thế nào?”

Trong khi đó, các nhà khoa học đã phân tích và chỉ ra rằng dự án khai thác Bauxite chỉ mang từ lỗ cho đến thiệt hại mà thôi. So với tính toán ban đầu, cả hai dự án tại Tân Rai và Nhân Cơ tăng tới 7,000 tỷ đồng vốn đầu tư. Sau 4 năm đầu tư, nhà máy Tân Rai có cho ra những mẻ alumin đầu tiên nhưng chỉ để tồn kho vì giá thành cao hơn giá bán, trong khi nhà máy Nhân Cơ thì vẫn còn… thi công.

Nguyên nhân chính của sự thất bại này theo giải thích là do tính sai về kế hoạch xây dựng hạ tầng vận chuyển. Theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Ban, nguyên trưởng ban Nhôm – Titan của Tập đoàn TKV thì nếu tiếp tục hai dự án này, tiền vận chuyển bằng đường bộ sẽ tốn khoảng 65 triệu Mỹ Kim mỗi năm, chưa kể những chi phí khác liên quan đến nhà kho, bốc dỡ và chi phí bao gói.

Dù giải thích nguyên do nào đi chăng nữa, sự thất bại của dự án khai thác Bauxite Tây Nguyên chẳng khác gì sự phá sản của Tập đoàn đóng tàu (Vinashin) và Tập đoàn Vận chuyển hàng hải (Vinaline) làm thất thoát hàng chục tỷ Mỹ Kim cách nay vài năm, mà cho đến nay CSVN cũng chưa dám giải quyết cho rốt ráo.

Chính sự ngoan cố và duy ý chí của lãnh đạo CSVN trong việc dàn dựng ra những dự án kinh tế quy mô, bất chấp những phản đối của giới trí thức và công luận, vẽ ra cái gọi là “chiến lược phát triển” để Việt Nam trở thành một quốc gia công nghiệp tiên tiến vào năm 2020, khiến cho nợ ngoại trái của Việt Nam hiện lên đến hơn 60 tỷ Mỹ Kim.

Tuy bị lỗ lã nặng, nhưng tại sao CSVN lại vẫn tiếp tục mà không dám ngưng dự án Bauxite? Đó chính là bởi Trung Quốc.

Dự án khai thác Bauxite tại Tây Nguyên do Trung Quốc khuyến dụ từ năm 2001 khi Nông Đức Mạnh lên làm Tổng Bí Thư. Trữ lượng Alumin tại Việt Nam rất lớn và Trung Quốc đang cần cho nhu cầu phát triển công nghệ Nhôm nên Hồ Cầm Đào tìm mọi cách thuyết phục lãnh đạo CSVN.

Lúc đầu Bộ chính trị CSVN chần chừ không muốn tiến hành vì thiếu sự thống nhất bên trong. Nhưng Bắc Kinh không bỏ cuộc. Một mặt, Bắc Kinh cho Tập đoàn khoáng sản Trung Quốc sang làm việc với Tập đoàn than – khoáng sản CSVN để thiết lập dự án. Mặt khác tung hàng triệu Mỹ Kim mua chuộc những cán bộ cao trong Bộ chính trị để chấp thuận tiến hành dự án này.

Kết quả là năm 2008, Nguyễn Tấn Dũng đã thay mặt Bộ chính trị ký với Bắc Kinh cho xúc tiến dự án khai thác Bauxite. Để tránh những chống đối của giới trí thức và dư luận Việt Nam vào lúc đó, nhất là lo ngại thảm kịch bùn đỏ gây tác hại môi trường vùng Tây Nguyên, CSVN tuyên bố rằng chỉ tiến hành dự án này ở hai thí điểm Tân Rai và Nhân Cơ.

Sau 4 năm khai thác, CSVN đang ở vào khúc quanh tiến thoái lưỡng nan. Tuy muốn ngưng khai thác nhưng lo ngại Trung Quốc gây khó khăn, nhất là Bắc Kinh có thể đòi lại những số nợ cho vay hoặc bắt bồi thường những thiệt hại trên các giao kèo khai thác. Không những thế, Trung Quốc có thể phá bỉnh một số lãnh vực kinh tế khác mà CSVN khó có thể phòng chống hiệu quả.

Nói tóm lại, lãnh đạo CSVN không dám ngưng dự án khai thác Bauxite tại Tây Nguyên không chỉ vì sợ đối diện về những quyết định sai lầm và thất bại của mình, mà căn bản hơn là sợ Bắc Kinh nổi giận và có thể tung ra những đòn phá hoại khó lường.

Sợ Bắc Kinh, Bỏ Tù Sinh Viên Yêu Nước.

Từ những ứng xử phi lý, phi pháp và bất chấp những thiệt hại cho quốc gia, CSVN cũng đã nặng tay đàn áp những sinh viên yêu nước vì muốn chứng tỏ sự trung thành của họ đối với Phương Bắc.

CSVN biết rõ hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha vô tội. Hai sinh viên này không hề viết hay lưu truyền bất cứ khẩu hiệu nào phê phán hay chỉ trích nhà nước CSVN mà họ chỉ tập trung lên án “tàu khựa” đã xâm phạm biển Đông.


Những hành động yêu nước của sinh viên Phương Uyên và Nguyên Kha đã có những tác dụng rất lớn trong giới trẻ và thành phần trí thức. Tuy nhiên, CSVN kết án nặng đối với hai sinh viên này không chỉ nhằm răn đe giới trẻ tại Việt Nam mà còn nhằm bịt miệng những ai dám xúc phạm đến Bắc Triều.

Nhìn vào cách loan tải của các tờ báo lề phải của CSVN về sự kiện Trung Quốc công bố sách trắng quốc phòng hôm 18 tháng 4 vừa qua đủ thấy tính chất tay sai của lực lượng công an và quân đội CSVN hiện nay.

Tờ Tuổi Trẻ thì cho rằng những luận điệu của Trung Quốc nêu ra trong sách trắng quốc phòng mang tính chất “vừa ăn cướp vừa la làng”. Bắc Kinh đã cố tình ngụy biện cho việc tăng cường ngân sách quốc phòng là để đối phó việc các nước láng giềng giáp biển đã làm cho tình hình căng thẳng và nghiêm trọng, trong khi trên thực tế thì chính lực luợng hải giám Trung Quốc đã thường xuyên dùng vũ lực trấn áp ngư dân của các nước ven biển Đông. Bài báo của tờ Tuổi Trẻ bị buộc phải bỏ tiêu đề “vừa ăn cướp vừa la làng”.

Trong khi đó, tờ Quân đội Nhân dân, cơ quan của Quân ủy trung ương và Bộ quốc phòng CSVN thì hết lời ca tụng sách trắng quốc phòng rằng Trung Quốc giới thiệu một khái niệm an ninh mới, theo đó đề cao sự tin tưởng lẫn nhau, lợi ích chung, sự bình đẳng và phối hợp, đồng thời theo đuổi an ninh toàn diện, an ninh chung và hợp tác an ninh trong vùng. Thậm chí tờ Quân đội nhân dân của CSVN còn khẳng định rằng “Trung Quốc sẽ không bao giờ theo đuổi chính sách bá quyền, hành xử theo kiểu bá quyền hay bành trướng quân đội.”

Câu hỏi đặt ra là tại sao Cộng sản Việt Nam lại sợ Bắc Kinh đến như vậy?

Có rất nhiều lý do để CSVN phải dựa vào Bắc Kinh, nhưng có 3 yếu tố sau đây khiến Bộ chính trị CSVN không những không dám làm trái ý và còn ép buộc người dân Việt Nam không được chống lại Bắc Kinh.

Thứ nhất là Bắc Kinh đã khống chế bằng tiền, bằng quyền lợi đối với hầu hết các thành viên Bộ chính trị, một số ủy viên trung ương đảng và tướng lãnh quân đội CSVN qua con đường kinh tế. Trung Quốc hiện là quốc gia có nhiều dự án đầu tư và cho CSVN vay tiền dễ dãi nhất để tài trợ các dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện và hạ tầng giao thông tại Việt Nam.

Trung Quốc chỉ cần tung những số liệu “tham ô” như đã từng tiết lộ cho giới ngoại giao tại Hà Nội rằng gia đình Nguyễn Tấn Dũng đã nhận 150 triệu Mỹ Kim để đổi lấy việc đồng ý tiến hành dự án Bauxite vào năm 2009, là đủ để buộc những cán bộ cao cấp CSVN phải phục tùng Bắc Kinh vô điều kiện. Nhất là hiện nay CSVN đang tung chiến dịch “chống tham nhũng” để thanh trừng nội bộ giữa các phe nhóm.

Thứ hai là lãnh đạo CSVN, đứng đầu là những cán bộ từng gắn chặt với Bắc Kinh như Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Đinh Thế Huynh, Nguyễn Chí Vịnh.... cầm đầu xu hướng phục tùng Trung Quốc như là “ngọn cờ” để tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Không dựa vào Bắc Kinh và không coi Bắc Kinh là mẫu mực thì lãnh đạo CSVN không thể nào thuyết phục được nội bộ tiếp tục cố thủ trong lô cốt độc đảng, để kéo dài ảo vọng tiến lên xã hội chủ nghĩa.

Chống lại Bắc Kinh tức là đã chống lại “ảo vọng xã hội chủ nghĩa” mà Trung Quốc đang là đích nhắm nên dù có bực mình những hành xử bá quyền của đế quốc phương Bắc, CSVN vẫn phải im lặng hay phản đối chừng mực trong khuôn khổ cho phép của Bắc Kinh.

Thứ ba là cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội đều rất sợ làn sóng yêu nước của người Việt Nam. Hà Nội sợ làn sóng yêu nước vì nó có khả năng kích động thành một phong trào chống chế độ một cách rộng lớn, và lôi kéo cả những người trong lòng chế độ tham gia.

Bắc Kinh sợ làn sóng chống Trung Quốc tại Việt Nam vì kinh nghiệm của quá khứ cho thấy là làn sóng này có khả năng kết thúc một chế độ tay sai ngoại bang và tác động vào những lực lượng dân chủ tạo ra những chuyển biến thay đổi ngay tại thành trì mẫu quốc.

Tóm lại, khi một chế độ độc tài toàn trị rơi vào tình huống phải dựa vào một quan thầy để giúp chống lưng bảo vệ quyền lực cho lãnh đạo thượng tầng, cũng như bịt miệng người dân để làm hài lòng mẫu quốc thì sớm muộn gì họ cũng đối diện cảnh “tức nước vỡ bờ” xảy ra.

Hàng triệu người đã bày tỏ sự tức giận trên mạng xã hội, khi nghe tin CSVN kết án 14 năm tù cho hai sinh viên Phương Uyên và Nguyên Kha. Diễn biến này cũng không khác gì sự kiện hàng triệu người Tunisia bày tỏ sự phẫn nộ trên Facebook, Twitter khi hay tin sinh viên Mohamed Buoazizi, 26 tuổi đã tự thiêu để phản đối chế độ độc tài Ben Ali vào ngày 17 tháng 12 năm 2010.

Chỉ năm ngày sau, sự phẫn nộ nói trên đã chuyển ra trên đường phố. Đầu tiên là tại thành phố Sidi Bouzid, nơi sinh viên Mohamed Bouazizi tự thiêu và sau đó nhanh chóng lan rộng đến thành phố Jendouba, Sousse, Sfax và thủ đô Tunis.

Chế độ độc tài Ben Ali tại Tunisia đã sụp đổ sau 29 ngày biến động.

Lý Thái Hùng

Ngày 19/5/2013

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.