Hôm nay,  

Thất Bất Giảng

24/05/201300:00:00(Xem: 8847)
Bảy Điều Không Được Bàn Tại Trung Quốc – Và Tám Điều Cấm Tại Việt Nam

Văn phòng Biện Công Sảnh của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc vừa đưa ra một chỉ thị được lặng lẽ phổ biến cho các đại học.

Biện công sảnh (hay Bạn công thinh theo cách nói tại Trung Quốc) là bộ phận lo công việc thường vụ của bộ Chính trị và ban Chấp hành Trung ương, kể cả việc ban hành chỉ thị từ trung ương xuống các cấp bộ ở dưới. Chỉ thị ở đây có tên tắt là "Thất bất giảng", bảy điều không được bàn cãi giảng giải.

Sau khi được các đại học thông báo về sự cấm đoán này, các giáo sư mới than phiền, mà vẫn phải giấu tên để khỏi bị kỷ luật. Nhờ vậy mà từ đầu Tháng Năm vừa qua, thế giới bên ngoài mới được biết về tư tưởng và chủ trương của cấp lãnh đạo mới tại Trung Quốc, thế hệ thứ năm hay "Thế hệ Tập-Lý" của Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường.

Vì các trí thức Trung Quốc không được luận bàn - và học sinh sinh viên không được giảng dạy - về "bảy điều cấm", ta nên tìm hiểu xem lãnh đạo mới của Trung Quốc e ngại những gì.

Thứ nhất là các giá trị phổ cập trên hoàn vũ, "universal values".

Từ khi câu mở đầu của Jean Jacques Rousseau là "con người ta sinh ra ai cũng có tự do" trở thành tôn chỉ ghi trong hiến pháp của các nước, nhân loại đã tiến rất nhiều và chấp nhận những giá trị phổ cập. Đấy là loại quy ước có thể là bất thành văn hoặc viết thành luật theo đó con người ta phải có những quyền căn bản như tự do, dân chủ, quyền bình đẳng trong xã hội và cả quyền truy tìm hạnh phúc, thịnh vượng, v.v.... Trung ương đảng tại Bắc Kinh giăng tấm lưới khá rộng khi cấm thần dân bàn cãi về những giá trị phổ cập của thế giới văn minh. Lãnh tụ Tập Cận Bình và Ban Tuyên truyền Trung ương còn nói rõ hơn, rằng loại "giá trị phổ thế" này là một tư tưởng của Tây phương mà Trung Quốc phải canh chừng và đả phá.

Thứ hai là quyền tự do báo chí.

Các quốc gia văn minh nói đến nguyên tắc "tam quyền phân lập", là sự hiện hữu của ba cơ chế quyền lực độc lập và bình đẳng xuất phát từ người dân là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhưng họ còn nói đến "đệ tứ quyền" là cơ chế quyền lực thứ tư, đó là truyền thông báo chí. Quyền tự do báo giúp người dân thấy ra sự thật khách quan và có được thông tin cần thiết cho sinh hoạt thường nhật, từ kinh tế đến chính trị hay văn hóa. Dù đã duy trì chế độ kiểm soát tư tưởng và thông tin, với một Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương ngồi trong Bộ Chính trị, lãnh đạo Bắc Kinh vẫn phải cấm bàn luận về tự do báo chí, cho nó chắc. Nhà nước vẫn giữ độc quyền chân lý và báo chí chỉ là con vẹt.

Thứ ba là "xã hội dân sự".

Khái niệm "civil society" là điều tương đối mới mẻ dù thực tế thì đã hiện hữu từ thời cổ, chuyện "phép vua thua lệ làng" là điều mà xã hội nào cũng có vì người dân một nước phải có khu vực sinh hoạt riêng, không do chính quyền chi phối. Nếu chú ý đến khía cạnh chính trị và quyền lực, ta có thể dịch là "xã hội dân sự" với các định chế, tổ chức hay đoàn thể phi chính phủ và độc lập với nhà nước. Nếu chú ý đến quyền sinh hoạt của người dân, trong đó có cả quyền kinh tế, người ta có thể dịch là "xã hội dân sinh" và nhấn mạnh đến thẩm quyền của người dân trước hai thế lực kia là chính quyền và các doanh nghiệp. Dù có hiểu theo cách nào đi nữa thì người dân phải có một không gian và lãnh vực độc lập và có quyền tổ chức ra các cơ quan dân sự để phục vụ nhu cầu của mình. Đã chẳng công nhận và bảo vệ xã hội dân sự, mà họ gọi là "xã hội công dân", lãnh đạo Trung Quốc còn cấm bàn về hình thái sinh hoạt văn minh này. Họ trở về thời Thương Ưởng hơn hai ngàn năm trước.

Thứ tư là dân quyền.

Là khái niệm căn bản và đầu tiên được đưa vào bản Tuyên ngôn Nhân quyền của Quốc tế từ năm 1948, dân quyền hay quyền của công dân là một bước tiến của nhân loại và nay tiếp tục được mở rộng. Từ quyền tự do và bình đẳng của người dân trước hệ thống quyền lực chính trị của nhà nước, khái niệm này mở sang các lãnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, môi sinh. Nó bành trướng ảnh hưởng lẫn thẩm quyền của con người để ngăn ngừa nạn độc tài và tinh thần kỳ thị vì bất kỳ một lý do nào. Phạm trù "dân quyền" là đề tài được thường xuyên tranh luận vì những biến thái thường trực của con người trong xã hội và của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Nhưng khi lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc cấm luận bàn về dân quyền thì kết quả đầu tiên là dân không có quyền.

Thứ năm là về những sai lầm của đảng trong lịch sử

Đảng Cộng sản Trung Quốc viện dẫn những thành tựu kinh tế và tinh thần của xứ sở để biện minh cho quyền lực độc tôn của mình. Nhưng trong thâm tâm, lãnh đạo của họ ý thức được nhiều sai lầm của đảng trong quá khứ. Thời Mao Trạch Đông, những đợt "Cải cách Ruộng đất" rồi "Chỉnh phong" đến "Bước Nhảy vọt Vĩ đại" qua cuộc "Đại văn cách", v.v... đã khiến mấy chục triệu người chết đói, đảng viên bị đấu, bị diệt và kinh tế lẫn xã hội bị khủng hoảng triền miên trong 30 năm hoang tưởng. Sau khi Đặng Tiểu Bình cải cách từ năm 1979, những sai lầm của đảng cũng gây nhiều thảm họa, nổi bật là vụ thảm sát Thiên an môn hôm mùng bốn Tháng Sáu năm 1989 khiến mấy ngàn người thiệt mạng. Gần đây hơn lại có những vụ tham nhũng tầy trời làm rung chuyển hệ thống quyền lực trên thượng tầng...

Nhưng không một ai được nhắc đến chuyện này và căn bản nhất, chẳng ai được phép nói đến phần tiêu cực của sự nghiệp Mao Trạch Đông. Tập Cận Bình còn nhắc nhở là nếu Mao cũng bị đả kích thì cả hệ thống xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc đã gặp số phận của Liên Xô!

Thứ sáu, không được nhắc đến mạng lưới thân tộc.

Trong một nền kinh tế thị trường nửa vời, tinh thần "một người làm quan cả họ được nhờ" dẫn đến chủ nghĩa tư bản thân tộc, crony capitalism. Đó là khi đặc quyền chính trị trong đảng có thể dẫn tới đặc quyền kinh tế cho gia đình hay tay chân của đảng viên. Điều lệ đảng không cho phép đảng viên ở cấp lãnh đạo được quyền kinh doanh, nhưng thân nhân và gia tộc thì tự do, và thực tế còn được bảo vệ.

Vì vậy, hệ thống kinh tế chính trị Trung Quốc mặc nhiên định chế hóa quy luật tư bản thân tộc và còn tạo cơ hội hình thành mạng lưới thân tộc rộng lớn vây quanh các tập đoàn kinh tế nhà nước. Con cháu các lãnh tụ đều là những đại gia chia vùng ngự trị và trưng thu. Trong số này, có ảnh hưởng và quyền lợi toả rộng là con cháu các đại công thần, được gọi là "Thái tử đảng". Có tư thế lớn nhất trong phe Thái tử đảng ngày nay chính là Tập Cận Bình, con trai của Tập Trung Huân, một lão đồng chí và đại công thần từ thời Mao. Hèn gì mà không ai được nhắc đến mạng lưới cấu kết này.

Thứ bảy là quyền tư pháp độc lập.

Xuất phát từ nguyên tắc tam quyền phân lập, quyền tư pháp độc lập là một nền tảng của dân chủ. Nó đòi hỏi một hạ tầng luật pháp bình đẳng, công khai minh bạch, do người dân và đại diện của mình góp phần lập ra và được thực thi bởi một hệ thống nhân sự độc lập về chính trị lẫn kinh tế. Toà án và các thẩm phán phải có quyền diễn giải và áp dụng luật lệ mà không bị đảng, nhà nước hay các thế lực kinh tế chi phối. Các quốc gia văn minh đều phát huy và củng cố quyền tư pháp độc lập và còn giải thích rộng rãi cho người dân biết được quyền hạn của mình qua nền tư pháp đó. Trung Quốc thì chưa, và còn cấm không cho nhân dân luận bàn về các tòa án nhân dân!

Sau khi thế hệ thứ năm lên cầm quyền, thế giới bên ngoài cứ như thày bói sờ voi mà dự đoán về tư tưởng hay chủ trương của lãnh đạo mới. Chỉ thị từ trung ương xuống về "thất bất giảng" là một sự khải thị bất khả tư nghị!

Nhìn từ giác độ của đảng Cộng sản Việt Nam, bảy điều cấm này cũng là chân lý sáng soi. Nhưng đảng ta còn nêu ra một điều thứ tám: "cấm không được phê phán Trung Quốc".

Quy luật "con hơn cha nhà có phúc" của bầy Thái thú nội hóa!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.