Hôm nay,  

Ngày Mai

25/05/201300:00:00(Xem: 6948)
Hiệp định Genève ký kết năm 1954, chiếc máy bay cuối cùng đưa gia đình tôi vào miền Nam. Lần đầu tiên bay bổng trên các tầng mây, cậu bé 8 tuổi đã quên hẳn phố xá Hà Nội, hân hoan với chuyến du hành ngàn dặm vào cuộc sống mới mà vô tư không rõ căn nguyên...

Sau thời gian tạm cư, Bố Mẹ tôi mua căn phố nhỏ trong cư xá Nguyễn Tri Phương. Bố tôi làm pháo Điện-Quang, pháo vừa ra thì chiến sự lan tràn, chính phủ ra lệnh cấm đốt, thương mại của Bố vì thế cũng tịt ngòi! Mẹ tôi đành mở tiệm sách và cho thuê truyện để nuôi đàn con. Trước cửa nhà là một bùng binh sân cỏ rất lớn, xa xa có trường tiểu học. Tôi thường mặc quần xà lỏn, đi chân đất vào lớp sau những trận đá banh, áo quần mồ hôi nhễ nhại. Suốt ngày lêu lổng ngoài đường với đám bạn cùng xóm cả trai lẫn gái. Đánh chuyền, nhẩy lò cò với con gái. Đánh khăng, đánh vụ, đá dế với con trai. Thế nhưng thời gian vui chơi ấy không kéo dài được bao lâu...

Tôi bị rớt trong kỳ thi tuyển vào trường trung học Nguyễn Trãi năm 57, ngẩng cổ cò chẳng thấy tên đâu! Mấy đứa học giỏi như thằng Toản, thằng Quang... đều đậu cả. Nhà nghèo, không thể ghi danh học tư, Bố đã tính gởi tôi cho ông chú chủ tiệm chụp hình ở Tân Định để học nghề phó nhòm... May thay! Vì thấy tôi lo lắng, sợ hãi cho tương lai nên Mẹ can thiệp để tôi tiếp tục được học chữ. Bố đồng ý cho thêm cơ hội và giúp kèm luyện thi nên vào mùa thu 58, tôi đã đỗ vào trường, hãnh diện là học sinh Nguyễn Trãi đồng phục áo sơ mi trắng quần xanh. Giã từ tuổi thơ, những ngày tháng rong chơi.

Buổi tựu trường năm ấy, tâm hồn thơ ngây tự nghĩ đã đủ lớn khôn, nhìn cuộc đời muôn mầu như nắng ấm ban mai chỉ vì tôi vừa gặp mối tình đầu. Người yêu tôi đẹp tự nhiên, mong manh mầu vàng của cánh hoa mai. Nàng nhìn tôi an ủi những lúc lo âu, mang theo viễn ảnh của một ngày mai tươi sáng. Nàng đến bên tôi, yêu thương vô điều kiện, mỉm cười lúc tôi vui hay vỗ về mỗi khi cơn mưa buồn đổ về thành phố. Tên nàng là Mai, viết tắt của hai chữ Ngày Mai...

Thời kỳ này, thuyết hiện sinh từ Âu châu lan tràn vào đất nước, ảnh hưởng nhiều vào đám thiếu niên chúng tôi. Trong học đường hay ngoài xã hội, ai cũng khuyên sống cho hiện tại vì hôm qua là quá khứ còn ngày mai thì chưa đến! Tư tưởng ấy nhanh chóng trở thành phong trào, vì bản chất thực tế của nó, quyến rũ con người hưởng thụ tức thì cuộc sống phù du. Riêng tôi, có lẽ ám ảnh bởi thất bại đầu đời, kỳ thi tuyển bị rớt nên Bố tôi cho là dốt chữ, dự tính bắt học một nghề ở tuổi lên mười hòng sau này nuôi thân... Phán xét ấy đã làm mất đi niềm tự chủ của đứa bé mới chập chững vào đời. Hậu quả là từ đó, tôi nhìn tương lai với nỗi lo âu triền miên...

Ngày Mai đến bên tôi vì cần thiết, bù đắp những trăn trở trong lòng. Tôi luôn luôn sống với Ngày Mai kể từ khi nhập học lớp đệ thất mà quên đi hiện tại hôm nay. Nàng hiện thân cho một ngày mai huy hoàng trong tâm hồn tôi bằng tất cả tưởng tượng cao đẹp của một thiếu niên đang bước vào tuổi dậy thì. Nàng giúp tôi thực hiện giấc mộng đầu đời, nặng ân tình và ước nguyện mai sau.

Làm sao định nghĩa tình yêu của tôi dành cho nàng? Ngày Mai là cả một quãng đường dài đi đến tương lai đang chờ đón tôi dù không biết trước thành công hay thất bại, hạnh phúc hay khổ đau. Ngày Mai chẳng khác gì người tình trăm năm của tôi... ở tuổi lên mười! Duyên kiếp đã an bài để gặp nhau và đi chung đường đời. Ngày Mai, tên của một thiếu nữ yêu kiều, thanh khiết như đêm trăng, hiền dịu như lòng mẹ, ôm trọn giấc mơ đời tôi trong vòng tay, nhẹ nhàng khuyên nhủ hay hoan hỉ chung vui dù sự thành đạt có nhỏ bé như hạt cát trong biển đời. Nàng loanh quanh đâu đó, thật gần mà xa, chẳng bao giờ tôi với tới để ôm được nàng! Ngày Mai là thực... Hiện hữu như bóng người con gái trong sương mờ mang nét ảo của hư vô.

Trên sân trường Nguyễn Trãi giờ ra chơi ngày ấy, tôi là hình ảnh cậu học trò nhút nhát, ít nói vì nỗi niềm u uẩn không tên. Vài người bạn thân ngồi chung bàn, cùng học cùng chơi giới hạn bởi tính tự kỷ nhưng khi về nhà mỗi khi chiều xuống, tôi vẫn có Ngày Mai bên cạnh chia sẻ sự cô đơn để không bao giờ thấy hiu quạnh một mình. Năm tháng dần trôi, thời gian như bóng câu qua cửa, thấm thoát đã đến kỳ thi trung học phổ thông.

Trong căn bếp nhỏ, tôi đứng hàng giờ trước tấm bảng đen để học toán. Trời Saigon mùa hè về khuya nóng bức, muỗi bay vo ve từng đàn nên buổi trưa đi học lúc nào cũng có nhiều vết đỏ vì bị đốt khắp người... nhưng đó vẫn chỉ là chuyện nhỏ ngày hôm nay. Tất cả nghị lực đều tập trung để hướng về một ngày mai trong cảnh bình minh tươi sáng. Xong trung học đệ nhất cấp, phục hồi lại niềm tin do sự nâng đỡ âm thầm của Ngày Mai, hai năm sau tôi đỗ tú tài toàn phần rồi ghi danh vào đại học bên Pháp.

Đến Paris một ngày đầu thu tháng mười 1964, vừa ra khỏi máy bay, tôi đã vấp ngã, nằm sóng soài trên đại sảnh của phi trường Orly vì đôi giầy mới đóng ở tiệm Gia đi chưa quen mà sàn nhà trơn trượt bằng đá cẩm thạch. Hành lý văng tứ tung! Tôi e thẹn thu góp lại cùng với sự giúp đỡ của mấy cô tiếp viên Air France xinh đẹp như người mẫu.

Đau chân mà cũng chẳng dám thổ lộ. Về đến nhà trọ, mới biết Ngày Mai vẫn là bạn đồng hành trong quãng đường viễn du của tôi bên trời Âu. Nàng mỉm cười, như muốn nói đó chỉ là tai nạn nhỏ chẳng đáng bận tâm. Con đường tương lai dài và rộng thênh thang trước mặt sẽ còn nhiều trắc trở nhưng chẳng bao lâu nữa... tôi sẽ bay nhẩy như chim trời đủ lông cánh.

Thời gian xa gia đình, đất nước ngập chìm trong khói lửa, bạn bè mỗi người một phương, Ngày Mai vẫn đến bên tôi như nguồn an ủi duy nhất, nhẹ nhàng cho tôi hiểu nàng vẫn còn đó và ngày mai sẽ không như thế này...

Sống giữa kinh đô ánh sáng mới thực sự hiểu hết ý nghĩa của thuyết hiện sinh. Một trong những người sáng lập là Jean Paul Sartre, ông đã đoạt giải Nobel văn chương cùng năm tôi lên đường sang Pháp. Thỉnh thoảng người ta vẫn gặp ông tản mạn trong vài quán cà phê trên đại lộ St Germain des Prés, tạo nên một hình ảnh thảnh thơi, lôi cuốn con người vào cuộc sống lạc quan, hưởng thụ ngày hôm nay mà quên đi ngày mai đang đến hay sẽ không bao giờ đến!


Những lúc yếu lòng cảm thông với thuyết sống vội, từ xa tôi thấy người yêu tôi khóc. Nước mắt nàng mặn chẩy ngược vào tâm can làm lòng tôi tê dại mang mặc cảm tội lỗi như đã mất Ngày Mai và cả tương lai. Yểu điệu như một cành hoa nhưng chính nàng là động lực mạnh đã vớt tôi lên nhiều lần từ những thèm muốn nhất thời hay hố sâu vực thẳm trên đường đời.

Sau những năm đèn sách, đến lúc tôi phải kiếm việc làm để tạo sự nghiệp. Hăng hái tôi đi khắp miền nước Pháp để trả lời phỏng vấn. Những chuyến tầu đêm xuôi về các tỉnh Toulon, Toulouse, Marseille... nơi có nắng ấm và những bông hoa tím mọc khắp nẻo đường hay lên miền bắc, vùng biển lạnh thuộc các tỉnh Nantes, Caen, Dunkerque... Đôi khi phải ngủ ngồi trong phòng chờ của các ga xe lửa để đổi tầu, gió đêm se lạnh làm tỉnh giấc mỗi lúc cửa mở vì du khách qua lại. Những gian nan ấy vẫn chỉ là hiện tại cho một ngày mai chưa đến. Những ngày đầu đi làm thật khó khăn! Vì mới ra trường hay vì chủng tộc, thường phải nhận nhiệm vụ dưới khả năng nhưng Ngày Mai vẫn ở bên cạnh để nhắn nhủ: “Đó chỉ là tình trạng của hôm nay”. Tôi đã vươn lên từ sức mạnh ấy và chỉ sau một thời gian ngắn là được trọng dụng vào đúng tiêu chuẩn của mình.

Hãng xưởng thường xây cất ở vùng ngoại ô tỉnh nhỏ. Đêm về, một mình đứng dưới trăng sao, giữa không gian thanh vắng, cảm thấy thân phận nhỏ bé trước viễn ảnh cuộc đời. May thay tôi còn có em, Ngày Mai vẫn không dời nửa bước, hứa với tôi, hơn bao giờ hết: “Ngày mai sẽ không là hôm nay”.

Ở tuổi mới lớn, có những cuộc tình lãng mạn với người con gái Tây phương. Đêm đông lạnh, tuyết rơi ngoài song cửa bạc trắng cả khung trời, hương phấn tình yêu còn vương vãi trong chăn ấm trên giường, tôi thấy Ngày Mai quay mặt thở dài... Đôi lúc nàng nằm chen vào giữa khi cuộc tình đang thăng hoa, nói nhỏ chỉ riêng mình tôi hiểu: “Giây phút này chỉ là hạnh phúc của hôm nay...”

Tình yêu đến rồi đi, mong manh như tháng ngày bởi vì tôi vẫn sống bên cạnh Ngày Mai và không chấp nhận hiện tại. Nàng nghĩ đúng! Tình yêu lứa đôi và cuộc sống thường là bài toán khó giải đáp nếu đã có sẵn những dị biệt. Biết vậy, nhưng không lý lẽ nào trên thế gian thu hồi hay giải tán được tình yêu vì thế những lúc thất tình, Ngày Mai đã tạo trong lòng tôi sự chán chường, thất vọng mà chính nàng không hay! Cuối cùng thì nàng vẫn là người tình thuỷ chung, ngăn cản tôi dừng chân dạo ấy ở một bến bờ xa quê hương.

Năm 1975, cơn bão lịch sử đẩy dân tộc vào một khúc quanh. Vì không có ngày về nên tôi càng đi xa đất nước. Hình ảnh Ngày Mai như bảo vật không thể thiếu trong hành trang. Nàng hiện diện để thanh toán nợ nần với tôi như có hẹn từ kiếp trước. Cũng một ngày đầu thu... tháng mười 1976, tôi chấp nhận công việc mới ở Casablanca, đô thị hải cảng vùng Bắc Phi. Chiều nơi miền đất sa mạc xuống âm thầm... đôi khi rất chậm! Nắng vẫn còn vàng trên “thành phố trắng” vào giờ tan sở. Chiều nơi đây mang mầu sắc ảm đạm, dễ gợi nỗi lòng viễn xứ nhớ mong. Bơ vơ trên đất khách quê người, những lần một mình thơ thẩn trên bến tầu nhìn ra bờ Địa Trung Hải, cảnh hoàng hôn có ánh mặt trời đỏ ửng cuối chân mây dâng lên tình hoài hương làm hồn ta bất động. Tôi lại thấy Mai, đứng bên cạnh để gió lùa vào mái tóc, âu yếm ôm ngang tôi với nụ cười trên lưng rồi thủ thỉ bên tai: “Ngày mai, em sẽ về quê hương cùng với anh...”

Vạn vật sống nơi đây, khí hậu của sa mạc bỏng cháy như đất trời, tình người hâm nóng mỗi ngày dưới ánh nắng gay gắt nên yêu đương cũng rộn ràng do lửa lòng thúc đẩy. Những cô gái Ả Rập đẹp như truyện “Ngàn Lẻ Một Đêm” tự bản thân đã mang nhiều bí ẩn nhưng cuối cùng Ngày Mai vẫn sáng suốt giúp tôi tiếp tục con đường mong muốn và không dừng chân ở lại xứ sở huyền bí này.

Đã 25 năm qua, tôi lập gia đình và tạo dựng sự nghiệp mới ở tiểu bang Cali, miền tây nước Mỹ. Xa rồi những năm tháng phiêu bạt giang hồ! Tan rồi những hoài vọng được trở về xây dựng cố hương! May còn có Mai để cuộc đời này còn thấy dễ thương với chút thành đạt hôm nay. Mai vẫn đẹp trong lòng tôi, đôi khi nhìn vợ lại nhớ đến nàng và bây giờ chắc Mai cũng sẵn sàng chấp nhận mối tình cuối đang kề cận bên tôi để nở nụ cười bao dung. Xin gởi em lời cảm ơn bằng tất cả tấm lòng...

“Ngày Mai yêu dấu,

Hai chữ cảm ơn không nói hết được tình nghĩa sâu đậm mà anh đã nợ em. Hôm nay, anh đã già nhưng tình chúng ta thì không. Hình ảnh Ngày Mai trong lòng anh vẫn là cô gái gặp buổi ban đầu nhưng ngày mai của đời anh thì hoàn toàn rút ngắn! Anh đang tận hưởng những ngày hôm nay trong đời, không phải ngày mai... vì chẳng bao lâu nữa sẽ là ngày cuối cùng!

Anh cũng đặt tên của em cho cô con gái út Cao thị Ngày Mai. Trước tiên để tri ơn món nợ ân tình em đã dành cho anh suốt cuộc đời. Sau hết, vì anh không muốn em mãi là “Người Tình Không Chân Dung”. Từ lâu vẫn chỉ là ảo ảnh nên dù em ở gần, anh vẫn thấy xa... Bây giờ mỗi khi nhìn Ngày Mai, hình ảnh em rõ ràng bằng xương bằng thịt.

Sống ở Mỹ, giáo dục thường được nâng đỡ và khuyến khích bằng hành động và lời nói ở mọi trình độ. Ngược lại, giáo dục bên xứ mình thường đạp đổ để xây dựng như trường hợp của anh khi xưa thi trượt vào trung học. Đứng trước sự thất bại, chúng ta nên cố gắng hiểu rõ nguyên nhân và đừng vội phán xét tâm hồn non nớt chưa kịp phát triển của đứa trẻ. Nó có thể bị tổn thương, mất niềm tin vào khả năng tự tìm cho mình một cuộc đời muốn sống trong tương lai. Đó là một điều bất hạnh..

Những ngày còn lại của anh bây giờ phải chăng là hạnh phúc hôm nay? Mỗi ngày một niềm vui vì không vui cũng mất một ngày! Chấp nhận hiện tại vì ngày mai đang lùi dần về phía âm cực nhưng tự đáy lòng, anh không bao giờ muốn Ngày Mai trở thành “néant”...

Yêu một thuở để trọn đời lưu luyến...

Cao Đắc Vinh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.