Hôm nay,  

Mùa Phượng Nở

04/06/201300:00:00(Xem: 19659)
Phim “Ba mùa” – Three Seasons – của đạo diễn Tony Bùi có đoạn kết với hình ảnh một thiếu nữ trong áo dài trắng tung tăng giữa hàng phượng đang rụng đầy hoa đỏ. Sau bao thăng trầm, nổi trôi cuộc đời, cô gái chỉ có ước mộng đơn sơ là được trở về quãng đời nên thơ đẹp nhất là tuổi của học trò.

Hoa phượng là “Hoa học trò”. Không biết từ lúc nào những cánh hoa đỏ đã được đặt cho một cái tên thật gần gũi, thân thương như thế. Có phải Xuân Diệu là người đầu tiên đã chọn tên đó?

Phượng là bạn của mọi người vì ai cũng có thời cắp sách đến trường, từng nhìn phượng nở mà xao xuyến lòng, từng nhặt cánh hoa ép vào trang lưu bút trao cho bạn bè. Học trò thân thiết với phượng như thân với bạn bè cùng lớp.

Hoa phượng cũng đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm đẹp của cuộc đời. Thời học cấp 2 có thày dạy văn Trương Quang Gia cho học sinh đọc và bình giảng về “Hoa học trò” của Xuân Diệu.

Lúc đó nhiều học sinh chỉ biết đến Xuân Diệu qua thơ tình, vì đến tuổi mộng mơ nên hay chép vào vở những vần thơ làm rung động tâm hồn: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu/Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều/Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…”

Như nhiều bạn bè cùng lứa tuổi, cho đến nay gần nửa thế kỷ đã qua mà tôi vẫn còn thuộc lòng những dòng thơ một thời được nắn nót trên giấy học trò bằng bút mực tím.

Khi được thày giới thiệu, học sinh mới biết thi sĩ Xuân Diệu còn là một nhà văn. Bài bình giảng của tôi không xuất sắc nhưng sau khi đọc và bình văn, “Hoa học trò” đã để lại trong tôi những cảm nhận khó quên về một loài hoa rực rỡ và đã tạo nhiều nỗi nhớ mênh mang theo tôi vào đời. Phượng qua Xuân Diệu là mầu chói chan của hoa lúc rực nở trong nắng, rồi sắc đỏ nhạt dần chuyển sang mầu xanh của lá báo hiệu ngày hè đã hết.

Những năm cấp 3 tôi học Nguyễn Bá Tòng, cả trường ở Sài Gòn và bên Gia Định. Trường trên đường Bùi Thị Xuân trong sân có mấy cây phượng. Năm lớp 10, giờ ra chơi đứng ngoài hành lang tầng ba bên dãy nam sinh nhìn xuống sân trường với những tà áo trắng bên tàn phượng ôi sao dễ thương.

Năm sau đó ngôi trường này chỉ dành cho nữ sinh nên tôi học lớp 11 và 12 bên đường Hoàng Hoa Thám, Gia Định. Sân trường ở đây rộng hơn và cũng có trồng hoa phượng, hoa sứ là những cánh hoa tôi hay nhặt, ép vào trang thư gửi cô bạn gái.

Gần cuối niên học, tiết trời tháng Ba, tháng Tư oi ả nóng. Nhìn phượng nở mà lòng lo âu vì hoa càng nhiều và sắc càng rực đỏ cũng là dấu chỉ báo hiệu sắp đến giờ chia tay và ngày thi sắp đến. Hai năm cuối trung học là những năm chúng tôi phải qua các kỳ thi tú tài để rồi đậu thì còn được gần nhau, rớt sẽ phải rời xa sân trường, xa bạn bè. Sau kỳ thi, những hôm đến trước cổng trường Trưng Vương, Gia Long hay Chu Văn An, Chi Lăng trông ngóng niêm yết kết quả, nhìn phượng nở sân trường mà lòng hồi hộp.

Rồi phượng cũng tàn để lại cây chỉ còn xanh mầu lá. Đầu niên học vào lớp vắng đi một số bạn nam sinh vì đến tuổi phải lên đường nhập ngũ tòng quân. Có bạn giã từ áo thư sinh bước vào chiến trường đã không bao giờ trở lại.
buivanphu_20130601_muahoaphuong_h01_hoaphuong_resized
Hoa phượng được gọi là hoa học trò. (ảnh Bùi Văn Phú)

Khi chiến tranh chấm dứt, tôi rời bỏ quê hương ra đi chẳng mang theo được gì ngoài kỷ niệm đẹp nơi sân trường và những tình bạn đã xa thật xa. Ở California, mùa hè có nắng vương chút lạnh, có muôn hoa muôn sắc nhưng không thấy bóng phượng đỏ ở đâu.

Cho đến một ngày đầu hè năm 1983 khi tôi rời Hoa Kỳ qua xứ Togo ở châu Phi. Vừa đến thủ đô Lomé đã thấy phượng nở đỏ bên đường là biết bao kỷ niệm tuổi hoa niên ùa về.

Hè năm đó đem lại nhiều niềm vui vì ở một đất nước xa xôi có phượng nở tôi lại được làm học trò và được làm thày. Tôi là học trò trong lớp Pháp ngữ và văn hoá Togo, là thày dạy thực tập một tháng trước khi về tỉnh nhận công tác. Ở đó có khí hậu nhiệt đới, cảnh nhà tranh vách đất, mái tôn tường gạch, những con đường đất ngập nước sau cơn mưa gợi nhớ nhiều cho tôi về quê hương nguồn cội. Cuối tuần, tôi cùng bạn hay đạp xe chạy vào trung tâm thành phố, đi ngang qua hàng cây quen thuộc của thuở học trò mà lòng xôn xao và bâng khuâng tự hỏi không biết học trò bản xứ có yêu mầu hoa đỏ như tôi, như học trò ở Việt Nam.
buivanphu_20130601_muahoaphuong_h02b_togo_resized
Tác giả dạy lý hóa tại một trường cấp 3 ở Togo, châu Phi. (ảnh Bùi Văn Phú)
Sau thời gian huấn luyện, tháng Chín tôi về nhận nhiệm sở dạy lý hoá tại trường cấp 3 ở Notsé, cách thủ đô Lomé 100 cây số về hướng bắc. Trên đường về tỉnh cũng thấy bên đường còn loáng thoáng sắc phượng đỏ.

Trường tôi dạy nằm tại thị xã Haho, ngay cạnh quốc lộ nối liền nam bắc Togo, mới được chính phủ Đức tài trợ xây cách đây không lâu. Hoa Kỳ giúp gửi đến giáo viên lý hoá là tôi và toán là một anh từ bang Ohio đã ở đó một năm.

Hai năm dạy học nơi xứ xa gợi nhớ nhiều kỷ niệm thời học sinh ở quê nhà vì học trò của tôi cuối năm cũng phải thi Tú tài I và Tú tài II vào những ngày phượng nở, như tôi đã từng trải qua với nhiều cảm xúc khó quên. Không thi đậu không được lên lớp 12 hay vào đại học. Khác chăng là học trò ở đây không phải đối diện với chiến tranh, không lo âu với lệnh động viên.

Khi hết thời hạn công tác, ít tuần trước ngày từ giã đồng nghiệp và học trò tôi đã trồng phượng nơi sân trường như món quà kỷ niệm hai năm dạy học ở đó. Hạt phượng do một người Việt quốc tịch Pháp gửi tặng. Anh Nguyễn Vũ đã làm việc ở Lomé nhiều năm và là giám đốc chương trình thảo mộc của Togo vì thế rất rành về các loại cây nhiệt đới. Biết tôi yêu thích hoa phượng, anh tặng cho hơn chục hạt to bằng ngón út.

Tôi trồng ở trường và cũng đem về trồng ở miền bắc California. Đất bắc Cali lạnh, ươm hạt nẩy mầm nhưng khi đem trồng ngoài sân phượng không sống được. Togo đất đá sa mạc, nắng nóng, ít mưa nên không biết cây phượng tôi trồng gần ba mươi năm trước ở sân trường có sống được và nở hoa vào những tháng hè hay không?

Theo dòng đời trôi, tôi lang thang phiêu bạt, du lịch đó đây và đã thấy phượng ở nhiều nơi: Hồng Kông, Thái Lan, Mexico, Hawaii.

Mỗi khi nhìn phượng nở đỏ lòng lại lâng lâng nỗi nhớ về một thời xa xưa. Nhớ thuở cắp sách đến trường nơi quê nghèo với chiến tranh. Nhớ bạn cũ, trường xưa. Nhớ thày cô. Nhớ mãi những mùa hoa học trò.

© 2013 Buivanphu.wordpress.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.