Hôm nay,  

Tây Du ký 2013

11/06/201300:00:00(Xem: 6909)
Chần chừ những hơn 20 năm, cuối cùng rồi cũng phải đến Orange County một chuyến. Đến, nơi mà người VN gọi là Thủ đô của người tỵ nạn, Quận Cam!

Đáp chuyến bay đêm từ miền Đông Hoa Kỳ đến San Jose, anh Đỗ Nguyên ra đón lúc nửa khuya. Về đến nhà có được một tô phở gà đi bộ. Chập chờn chỗ lạ, năm giờ sáng anh lên lầu, khẽ khàng đánh thức: “Đi cho mát và đỡ kẹt xe”! Xuống dưới nhà, anh chị đã sẵn sàng. Cà phê và thêm một tô phở gà đi bộ nữa. Chị có tài nấu phở nên tô thứ hai vẫn rất ngon. Thịt gà dai và ngọt. Nước lèo trong vắt! Lo cho một người bạn ở xa đến như thế là thừa đủ.

Lúc vừa bị đánh thức, giữa cái chập chờn, không hiểu tại sao cứ có cảm tưởng như “chuyển trại”! Bóng đêm, trời lạnh giữa rừng núi thâm u, bất ngờ lại phải gom gọn đồ đạt thật nhanh, tập trung ra sân trại tù với giàn nhạc côn trùng ngàn đời giữa khuya… Ấn tượng đó vẫn còn! Và sẽ tồn tại cho đến bao giờ?

Tiếng cửa garage cuốn lên lớn hơn tiếng người trao đổi, tiếng xê dịch, sợ làm phiền hàng xóm. Đêm hãy còn sâu. Lạnh.

Cái thú mê trà của Đỗ Nguyên vẫn còn nguyên. Trong xe đã có ly trà lớn pha đậm, đậy nắp, thêm tách cà phê trên tay, dự trù sẽ không Mc Donalds dọc đường. Thỉnh thoảng anh cứ nhắc, chiết trà ra chén nhỏ để thấm giọng. Chất trà 403, tuyệt.

Đêm lạnh, trời trong. Xe lao đi. Quận Cam, cái đích của cuộc hành trình, không phải chỉ 7 tiếng lái xe, mà hơn 20 năm ngày tôi đến Hoa Kỳ!

Chị Xuân không chịu ngồi ghế trước: “Có cái gối, nằm phía sau ngủ thích hơn”! Câu chuyện xoay vần. Tiếp nối. Lẩn lộn. Hành trình với núi, đồi, biển, nông trại, vườn tỏi, cherry, cây trái lần lượt hiện ra hai bên đường. Cùng với hành trình là của ký ức. Tuổi thơ, tuổi già, bạn tù, con cháu, bè bạn bây giờ, ngày xưa.. đủ loại tạp nhạp cứ theo nhau đến khản cổ.

Ghé đổ xăng, nghỉ xả hơi, chị Xuân ra ngoài ngúc ngoắt, co duỗi. Tôi ngồi vào ghế lái. Đến đoạn đường đèo mấy chục dặm, lên xuống quanh co, Đỗ Nguyên nói “lên đèo” còn tôi nghĩ, chắc phải “xuống đèo” nhưng tình thật không biết là lên hay xuống, thế đất phía nào cao hơn? Chỉ thấy hai bên sườn núi đồi có nhiều cây đứng chơ vơ, tán lá xanh đậm nổi bật trên thảm cỏ khô vàng mà bầu trời thì xanh ngắt. Lạ và đẹp như tranh vẽ!

Nhận phone từ Caubay. Tôi trả lời thoải mái nhưng không biết vợ chồng Đỗ Nguyên đang lên ruột. Dứt phone chị thở phào: “Ở đây lái xe mà nói điện thoại nó phạt chết!”

Trời trưa, đường 6 lane, nhưng vào thứ Bảy nên xe không nhiều lắm. Tấm bảng chỉ dẫn Exit Little Saigon đã hiện ra. Tấm bảng nhỏ, đứng khiêm nhường bên đường, nhưng hành trình của nó thì vô cùng lớn. Nếu không có biến cố 30 tháng Tư năm 1975 chắc chắn người ở đây không mấy ai biết đến địa danh Sài Gòn. Và hiện tại tên Sài Gòn cũng không còn nữa ngay trên chính quê hương! Chế độ đương quyền đã thay tên thành phố Hòn ngọc Viễn Đông bằng một danh xưng lạ lẫm. Một danh xưng mà người miền Nam không mấy ai muốn gọi. Chính chế độ đã tự chối bỏ di sản quê hương! Thế mà họ ra rả kết án người khác. Kết án người từ bỏ chế độ cộng sản để tìm tự do là “ôm chân đế quốc”!

Bây giờ thì bảng Little Saigon đứng đó. Sừng sững. Đứng để làm chứng nhân cho cuộc hành trình của di dân Việt, vẫn nặng tình ôm ấp hình bóng quê hương!

Sài Gòn Nhỏ!

Phải theo tiếng nàng GPS liên tục chỉ đường, quẹo trái, phải nên tôi không thể định hướng. (Ơ hay, tiếng của nàng GPS chứ đâu phải là tiếng gọi của tình yêu mà mình mất phương hướng?)

Đến nhà bạn chị Xuân, bụng đã đói. Ngôi nhà không có gì đặc biệt nhưng ra sau vườn thì tuyệt. Cả một công trình! Gia chủ chắc đã bỏ không ít thời gian chăm sóc. Cảnh, cây, trái, rau thơm và bóng mát của cái ao cá Koi với lá sen xanh thẫm. Chim lồng kêu tíu tít. Thêm mấy chú se sẻ bên ngoài đang nhảy lòng vòng trên nền đất, nơi tôi đang ở không hề nhìn thấy.

Có cái gì đó rất quê nhà!

Bữa trưa muộn, thịt heo cuốn bánh tráng với rổ rau xanh tươi tắn. Chị chủ nhà khoe: “Thịt heo tươi mới mua đó!” còn rổ rau thì hái sau vườn! Từ lâu tôi chỉ ăn thịt đã bỏ trong tủ lạnh, bây giờ bỗng dưng được nếm lại mùi vị thịt tươi, thật ngọt. Thêm cái mi/tau giòn tan giữa hai chị bạn nên bữa ăn như buổi sum họp của gia đình.

Vừa xong bữa trưa, Đỗ Nguyên vội vã chở đi ngay vì không có nhiều thời gian. Ghé thăm anh Phạm Phú Minh, cựu chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Thế Kỷ 21 đã một thời vang bóng, anh cũng từng có vai vế ở báo Người Việt và đài phát thanh. Từ ngày ra khỏi trại tù Thanh Cẩm, hơn 20 năm, anh và tôi mới gặp lại. Cái vui là chúng tôi không hề nhắc gì về chuyện cũ, vì câu chuyện trước mắt vẫn đang hấp dẫn. (Thường người ta thích kể lại kỷ niệm khi không còn thấy con đường phía trước!) Đó là chương trình triển lãm công trình văn hóa của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, ra đời 80 năm trước, với những tên tuổi lẫy lừng trong văn học như Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nhất Linh, Thạch Lam... Anh cho xem những bìa sách của 2 tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay được phóng lớn, cũng như vài sách của Tự Lực Văn Đoàn đã được các nước Nhật, Pháp, Nga dịch ra tiếng mẹ đẻ của họ từ đời nào, mà mãi đến nay người Việt mình vẫn chưa hề biết.

Anh Phạm Phú Minh cho biết đây là lần triển lãm “đầy đủ nhất” về nhóm Tự Lực Văn Đoàn!

Rồi lan man chuyện nền văn học miền Nam đã bị miền Bắc tìm cách hủy diệt nhưng bất thành! 38 năm sau 1975 giá trị văn học miền Nam đang sừng sững đội mồ sống dậy. Bên ngoài, có nhóm Trần Hoài Thư lục tìm di cảo văn chương miền Nam để in lại. Trong nước thì nạn in và phát hành chui tràn lan. Nạn nhân trực tiếp trong vụ án Nhân Văn và Giai Phẩm, nhà báo Phan Khôi, đang được phục hồi ngôi vị. Tác phẩm dày cộm Nắng Được Thì Cứ Nắng của Phan An Sa, con trai cụ, chứa nhiều dữ kiện về người cha tài năng lỗi lạc, đã một thời từng bị trù dập tả tơi dưới chế độ miền Bắc, được xuất bản ngay tại Hà Nội, đang để trên bàn. Câu chuyện về cái tên Lang Sa cụ đặt cho con trai, bây giờ sửa lại thành An Sa, trùng vào thời điểm Pháp vừa quay lại VN đã là cái cớ cụ bị đem ra đấu tố…

Chụp với nhau vài tấm ảnh căn nhà có giàn hoa tím của anh chị Phạm Phú Minh. Thường thì hình ảnh nầy nói về tình yêu tuổi đôi mươi, có người đẹp hong tóc mây, buông thả, mộng mơ… nhưng ở đây là hình ảnh một ông hơi lớn tuổi còn ôm được cây mandolin nhỏ bé, rung phím, nhả tơ!

Bất chợt nghe lại tiếng đàn mandolin, kỷ niệm cũ chợt ùa về. Những đêm văn nghệ ở làng xưa với tiếng đàn mandolin huyễn hoặc, với ánh đèn manchon treo cao hai bên sân khấu, loại sân khấu dã chiến, tạm bợ. Đèn sáng trưng, kêu o o, thỉnh thoảng phải lấy xuống bơm thêm dầu và đầy côn trùng mê ánh sáng lao vào! Những giọng hát, những lời ngâm thơ, không loa kèn, sáo đệm, những vở kịch mộc mạc giữa trăng đêm, trời sao, gió mát…

Những người muôn năm cũ đó đã lưu lạc về đâu? Còn sống sót được bao nhiêu sau cuộc dâu bể huynh đệ tương tàn?

Chia tay, anh Phạm Phú Minh nói: “9 giờ sáng mai gặp nhau ở cà phê Factory.”

Nguyễn Nhự lại léo nhéo: “Mi đến đâu rồi, sao chưa kêu tau ra đón?” Gặp lại hắn cứ như gặp ông tiên da đen tóc bạch kim! Dáng dấp trước kia cứng cáp, vững vàng, bước đi chắc nịch bây giờ thì đôi vai so lại, chậm chạp: “Bác sĩ nói mấy cái khớp xương của tau khô hết trơn chất nhờn rồi nên đành chịu thôi. Nhiều khi trời trở lạnh đau nhức chịu không nỗi!” Trong tù, lúc ở Hoàng Liên Sơn, chúng tôi chung toán đi rừng lấy măng! Ngày đó hắn khỏe như gấu, lủi rất nhanh vô các bụi dang, bẻ măng quăng ra cho thằng khác ngồi lột vỏ, để sau đó kéo nhau xuống suối mò tôm cá “cải thiện”!

“Mi ngủ khách sạn làm chi, cứ ở đây với tau. Vợ tau bận mấy cháu nhỏ không nấu nướng chi được nhưng có tiệm lo rồi. Các món ăn quê hương đủ cả. Mi muốn món chi tau dắt đi. Còn nhà chật, chật đâu.. bằng ở tù?”

Tôi ở lại nhà vợ chồng Nguyễn Nhự. Chuyện đời tám hoánh thuở học trò cứ theo nhau, không bao giờ dứt!

Chín giờ sáng hắn quăng tôi ở cà phê Factory: “Chỗ ni là chốn giang hồ, tau bận. Mi vô cho biết!”

Được gặp khá nhiều những khuôn mặt nổi tiếng trong giới viết văn làm báo tại đây. Có thể vì là lần đầu tiên đến nên chưa hơi hướm được “chốn giang hồ” là như thế nào. Cũng không nghĩ là quen hay lạ, tôi tự nhiên hòa vào không khí chung. Mỗi người mỗi vẻ. Chuyện thì lang bang, rề rà, nhàn tản. Điều ấn tượng là không thấy ai “đầu bù tóc rối”, ngậm “pip” và rất ít người hút thuốc! Chung chung bề ngoài thì phong thái văn nghệ sĩ hôm nay đã thật sự khác ngày trước rất xa! Ngồi lê la một lúc thì Caubay từ San Diego lên đến. Mặc khá lịch sự. Cũng dày dạn, viết phiếm linh tinh trên các trang webs nhưng dáng dấp vẫn còn nhiều nét rất thư sinh!

Tôi vẫn có ý định mời tất cả mọi người bữa sáng nay nhưng vì chân ướt chân ráo lớ ngớ nên lỡ dịp, đến khi biết được Thi sĩ Thành Tôn làm khổ chủ thì đã muộn!

Bữa trưa, hai anh Đoàn Ngọc Nam và Đỗ Xuân Trúc đãi điểm sấm. Cũng đồng hương Quảng-Đà.

7 giờ tối vợ chồng Đỗ Nguyên, Caubay và tôi đến tham dự trình diễn văn nghệ 10 bài Đạo ca của Phạm Duy do nhóm VAALA tổ chức. Vé “sold out” nhưng chương trình bắt đầu chậm hơn 15 phút! Từ xa tôi có biết sinh hoạt của nhóm VAALA, là một nhóm trẻ, tài năng và đầy triển vọng. Chỉ tiếc là cũng chưa vượt được câu “danh ngôn” “Không bột không Mễ, không trễ không VN”!

Không khí văn nghệ thật đúng nghĩa! Ca sĩ và khán giả hoàn toàn cùng đắm mình vào dòng nhạc mà không cần ngoại cảnh. Như Khánh Ly “chân đất” hát nhạc Trịnh Công Sơn thuở nào! Đó là giai đoạn bắt đầu cho trào lưu nhạc du ca. Nhạc đêm nay không có chủ đích “tìm lại” nhưng tự nó đi vào tính hoang sơ bẫm sinh, thuần chất văn nghệ, đâu dễ gì tìm được trong thời buổi nầy?

Y Sa, cố ý xúng xính trong chiếc áo dài, rất dễ thương. Còn Đinh Quang Anh Thái lại chừng mực nhưng cũng có chút hớ hênh! Như khi anh giới thiệu bài hát Nắng Chiều Rực Rỡ! Anh ca ngợi tài nghệ Phạm Duy qua cách dùng chữ “nghe nắng chiều” thay vì “thấy”. Thế nhưng lời hát thì chỉ “thấy nắng chiều” chứ không “nghe”!

Nếu ai đó hỏi tôi, có ấn tượng gì nhất sau chuyến đi, tôi sẽ chẳng ngại ngùng gì khi trả lời: Là được tham dự đêm văn nghệ của nhóm VAALA!

Xin cám ơn người thực hiện, Bác sĩ Ca sĩ Bích Liên và nhóm VAALA.

Hết phần nhạc Phạm Duy chúng tôi ra về dù còn phần tranh của họa sĩ Cao Bá Minh. Caubay đưa đi dạo một vòng phố đêm. Sinh hoạt cũng khá nhộn nhịp. Vào phở Lú, kêu tô nhỏ nhưng khi phở đem ra cứ ngỡ kêu lộn! Thì ra tô nhỏ ở đây lớn hơn cả tô lớn nơi tôi ở! Và giá rẻ hơn!

Đường đi San Diego về đêm, đẹp. Đồi núi chập chùng với muôn ánh đèn như sao lấp lánh, khác với thành phố của tôi, phẳng.

Thức dậy khá sớm. Lấy máy ảnh lặng lẽ ra bên ngoài ngắm cảnh. Nhà ở lưng chừng đồi nên tầm nhìn thật đẹp. So với Đà Lạt thì khung cảnh ở đây thoáng đãng hơn nhiều. Sang trọng hơn nhiều. Đà Lạt trở thành thật nhỏ bé nhưng là cái nhỏ bé của riêng tôi. Của chiếc nôi kỷ niệm.

Ghé thăm hai bạn tù cũ, Nguyễn Ngọc Thành và Nguyễn Đình Dương. Phông độ của chàng pilot Nguyễn Ngọc Thành năm xưa không còn nữa. Bây giờ anh có thú tiêu khiển trồng trọt. Cây khế ngọt, hình như hiếm và rất khó trồng (?) đang nhiều trái. Anh chị hiếu khách, hái tặng không tiếc. Còn Nguyễn Đình Dương, dân nhảy dù, phông độ hơn. Không biết phông độ từ chính anh hay nhờ hình ảnh cô vợ trẻ đẹp bên cạnh? Anh bảo tôi chọn món ăn sáng. Vào tiệm mì, có cái gì đó thật bất ngờ, thích thú: Rất “Tàu chợ Lớn”!

Chia tay có chút níu kéo, bùi ngùi!

Nếu làm Tourist guide thì Caubay phải được xếp hạng! Những gì đặc biệt và đáng ghi nhớ của thành phố nầy tôi đều được viếng.

Old Town San Diego, State Historic Park, gìn giữ dấu tích sinh hoạt của những người Mexico đầu tiên, như còn nguyên vẹn. Khi ngồi trên thành miệng cái giếng nước tôi sực nhớ lại cái giếng ở quê ngoại gần 60 năm về trước, nơi các thôn nữ vui đùa, gánh nước đêm đêm mà vì biến cố thời cuộc đã quên bẵng!

Maritime Museum với những con tàu biển thời xa xưa, còn đó. Mới hơn, là Hàng không mẫu hạm Midway, một chứng cứ lịch sử gắn liền với chiến tranh VN. Nhìn chiếc mẫu hạm đã trở thành museum cứ bùi ngùi. Không phải chỉ đơn giản là con tàu mang chứng tích lịch sử mà mình cưu mang lịch sử của con tàu!

Bức tượng vĩ đại, tại museum Midway, được thực hiện từ một bức ảnh chụp cảnh một thủy thủ ôm hôn nồng nàn một cô gái trẻ đẹp, không quen biết, ra đón người về sau chiến thắng, tôi nghĩ tới ngày trở về lặng lẽ của những người lính Mỹ sau chiến bại tại VN! Cũng may là lịch sử cận đại kịp chứng minh tội ác của chủ nghĩa cộng sản nên họ đã được phục hồi danh dự!

Đặt bức tượng đó ngay tại museum nầy phải chăng là một cách đền bù của lịch sử?

Chiến tranh là chết chóc. Nhưng chết để giành sự sống tự do cho người khác thì phải được vinh danh. 58 ngàn tử sĩ Hoa Kỳ trong chiến tranh VN là chứng tích thời đại. Hàng không mẫu hạm Midway giờ đây cũng đã yên nghỉ cùng với mộ phần của các tử sĩ hy sinh cho tự do!

Hai ngày rong chơi phố biển San Diego là hai ngày thật khó quên. Buổi sáng, trước khi rời thành phố, cô vợ đảm đang của Caubay may mắn, đưa đi ăn bún bò Huế. Quán bún có tên Miền Trung, Vietnamese Food To Go, đúng là một quán cóc 100% nhưng ngon tuyệt vời! Nếu không phải là người sành ăn tại địa phương chắc khó ai có thể biết! Ai đến San Diego, thèm bún với đầy đủ hương vị Huế, cứ thử một lần, gọi số phone nầy: 576-0962!

Trở lại quận Cam, bất ngờ được chị của vợ Nhự, mới từ VN qua thăm, đãi một tô Câu Lầu mà nguyên liệu chính gốc từ Hội An, thật vô cùng đặc biệt. Đây cũng là lúc chuẩn bị chia tay Thủ Đô Của Người Tị Nạn! Tôi nhờ Chủ bút Việt Báo để tìm cách viếng thăm mộ phần Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện. Rất cám ơn anh Phan Tấn Hải về sự sốt sắng, dù không thành! Lúc sống Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện là khuôn mặt của cộng đồng, là biểu trưng của khí tiết chống cộng sản nhưng khi về cõi lại nằm riêng lẻ, người hâm mộ, như tôi, cũng không thể viếng thăm! Một câu hỏi mà tự tôi không thể trả lời: Tại sao vậy?

Đến thì lúc nào cũng vui. Đi thì không thể không vương mang. Vì vợ chồng Đỗ Nguyên bận việc đã về trước nên tôi lên chuyến Xe Đò Hoàng mà lòng cứ ngổn ngang.

Ngổn ngang vì một nỗi rất người!
(June 5th, 2013)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.