Hôm nay,  

Những Cái isme

19/06/201300:00:00(Xem: 11872)
Trong tiếng pháp, có một số từ ngữ tận cùng bằng “isme” để chỉ một quan niệm, một nếp sanh hoạt hay một trào lưu tư tưởng. Nhưng cũng tiếp vĩ ngữ “isme “ ấy trong một số trường hợp diển tả một ý nghĩa xấu.

Tiếp vĩ ngữ “isme” hiện diện nhiều trong triết học, chánh trị, kinh tế, tôn giáo,... Nhiều từ ngữ được tạo ra với “isme” vào thế kỷ XIX và XX để chỉ những trào lưu tử tưởng lớn chi phối mạnh đời sống của hai thế kỷ nay.

Về cách cấu tạo, tiếp vĩ ngữ có thể ghép với danh từ chung như “le roi” (ông vua)- “le royalisme” (tư tưởng hay chủ trương bảo hoàng), với danh từ riêng như Ông “Marx” – “le marxisme” (chủ thuyết mác-xít), tỉnh từ như “colonial” (thực dân) – “le colonialisme” (chủ nghĩa thực dân), …

Tiếp vĩ ngữ “isme”, như đã nói, trong một số trường hợp, hàm nghĩa xấu. Hồi giáo là “islam “ nhưng “islamisme” có nghĩa là hồi giáo quá khích, thứ hồi giáo chủ trương khủng bố chống lại các tôn giáo khác hoặc nền văn minh không hồi giáo, như thiên chúa giáo hay tư tưởng dân chủ, tự do.

“Social” là xã hội bao gồm chủ trương, sanh hoạt nhằm phục vụ đời sống con người nhưng “socialisme” là chủ thuyết/ chủ nghĩa xã hội, một hệ thống chánh trị tổ chức xã hội dưới sự chỉ huy tập trung, tức độc tài nên tham nhũng và gian ác hoành hành triệt để như ở Việt nam ngày nay.

Tiếp vĩ ngữ “isme” làm mất đi ý nghĩa của chữ gốc. Trong tiếng việt nam vì tiếng đơn âm, muốn nói ý nghĩa của tiếp vĩ ngữ “isme” phải ghép thêm “chủ thuyết» hay “chủ nghĩa”. Như “le socialisme”, thì phải nói “chủ nghĩa xã hội”, “le communisme” là “chủ nghĩa cộng sản”.

Tóm lại, tiếng gốc có nghĩa tốt, bình thường nhưng khi ghép với “isme” ý nghĩa của nó bị thay đổi hoàn toàn. “Isme” cũng đóng khung cứng ngắt ý nghĩa của chữ. Cả tư tưởng hay suy nghĩ của con người.

Mượn “isme”, chúng ta thử lan man qua chữ nazi, viết tắc của “nationalsozialismus” và phong trào “Đầu trọc” (Skinhead) ở Âu châu và ở Pháp.

Nguồn gốc “Đầu trọc” (Skinhead)

Muốn hiểu qua vài nét về phong trào “Đầu trọc” ở Âu châu, chúng ta thử trở về những năm đầu của thế kỷ XX trước khi cuộc khủng hoảng lớn bùng nổ ở Đức (1929-1930). Đảng quốc xã của những người lao động người Đức - viết tắc là NAZI - trước kia chỉ là một tổ chức cực hữu của hệ thống chánh đảng Đức. Trong kỳ bầu cử Quốc hội năm 1928, đảng NAZI chiếm được 2,6% phiếu, một dấu hiệu thụt lùi so với kỳ bầu cử trước năm 1924 (3%). Cuộc bầu cử này đưa vào Chánh quyền một Liên minh lớn gồm đảng Quốc xã, đảng Công giáo, đảng Dân chủ đức và đảng Nhơn dân đức. Liên minh nắm quyền suốt sáu tháng đầu trong thời kỳ khủng hoảng.

Từ năm 1930, khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng mạnh lên đời sống quốc gia, làm cho công nhơn thất nghiệp lên tới 30%. Hằng triệu người Đức phản ứng. Họ kết hợp khủng hoảng kinh tế với nỗi nhục của đất nước sau khi Đức thất bại Đệ I Thế chiến. Dân chúng cho rằng Liên minh quá yếu không đủ sức đưa nước Đức thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng. Nghèo đói ở khắp nơi, lo sợ tương lai còn đen tối hơn nữa, giận dử và sốt ruột trước những thất bại của chánh phủ đối phó với nạn khủng hoảng, dân chúng lợi dụng tình hình đất nước khó khăn nhưng thuận lợi cho sự thay đổi nên vận động ủng hộ đảng Quốc xã (NAZI) với Adolf Hitler lên cầm quyền.

Hitler là một nhà hùng biện tài ba hấp dẩn mảnh liệt quần chúng. Ông biết khai thác sự tức giận và sự bất lực của một số lớn cử tri. Ông thu hút được một số lớn dân chúng Đức đang mong muốn thay đổi. Đảng Quốc xã vận động tranh cử hứa hẹn đưa nước Đức ra khỏi sự khủng hoảng. Đảng Quốc xã cam kết phục hồi những giá trị văn hóa của xứ sở, hủy bỏ những điều khoản của Hiệp ước Versailles bất bình đẳng, ngăn chận mối hăm dọa một cuộc cách mạng cộng sản nổi lên, đem lại công ăn việc làm cho công nhơn lao động và khôi phục lại vị trí cường quốc trên thế giới cho nước Đức.

Đảng Quốc xã trong cuộc bầu cử sau đó thắng lớn bèn hướng sự giận dử và sợ hải của dân chúng nhằm vào do thái, cộng sản và những người mà họ buộc tội có trách nhiệm ký Hiệp ước Versailles, cũng như thiết lập nền Cộng hòa Đại nghị. Hitler và đảng Quốc xã khép những người này vào “tội phạm tháng 11”.

Qua giữa tháng 7 năm 1933, Quốc hội chuyển cho Hitler toàn quyền và đảng NAZI trở thành đảng độc tôn cai trị nước đức.

Đức thất trận trong Thế chiến II, Hitler chết, đảng viên Quốc xã bị đưa ra Tòa án nhơn quyền. Sự việc này vội chôn vùi sự kiêu hảnh dân tộc trước đây. Ngày nay ở Đức, ở Pháp và Âu châu, nhiều nhóm thanh niên xuất hiện như để biểu hiện cái oai hùng xưa, do bất mãn đời sống xã hội hiện tại. Nhưng lớp trẻ bất mản xã hội, chánh giới, muốn một sự bùng vở để thay đổi cái hiện tại, không chỉ riêng ở Âu châu vì thừa hưởng cái kiêu hùng của Đức quốc xã và cái mặc cảm sau khi Đức quốc xã tàn lụi, mà hiện tượng này hầu như có mặt ở khắp nơi trên thế giới như Anh - thường những hiện tượng xã hội loại này bắt đầu ở Anh rồi mới lan ra các nơi khác – như Canada, Nhựt, …

Nhận diện “Đầu trọc” (Skinhead) và tổ chức cực hữu

“Đầu trọc” (Skinhead) nhìn thấy ở Âu châu và các nơi khác là những cá nhơn thuộc thành phần thợ thuyền và phải biết say mê âm nhạc jamaicaine (xứ Jamaique ở trong vùng biển Caraibes). Skinhead bị khép vào thành phần cực hữu, thứ “Tân Quốc xã” (Néo-nazisme).

Skinhead được định nghĩa là những người trẻ, những nhóm, phong trào, tổ chức, đảng phái, …nghiên về quá hữu của chánh trị, văn hóa, tôn giáo,…

Khi những người “Đầu trọc” thuộc cực hữu, về chánh trị, lập trường của họ thường không rỏ ràng, dứt khoát hẳn. Vì vậy, từ ngữ “cực hữu” chỉ những nhóm, những tổ chức chánh trị và bao gồm luôn phát-xít hay tân phát-xít, quốc xã hay tân quốc xã, những nhóm truyền thống hay toàn thống, tức quá khích, những thái độ kỳ thị chủng tộc hoặc phân biệt đối xử, cho tới cả những đảng phái quốc gia cực đoan hoặc “vì nhân dân - thật ra là mị dân” (populisme).

Về tổ chức chánh trị như đảng phái, trong ngôn ngữ chánh trị ở Anh, cực hữu được gọi là “hữu cấp tiến” vì nó ở giới hạn của hữu dân chủ, tự do hoặc bảo thủ. Có khác nhau về tổ chức, chủ trương, nhưng nền tảng ý hệ của họ có những điểm chung : lòng ái quốc, tinh thần quốc gia và truyền thống mạnh, có khi trở thành cực đoan. Họ bám vào những giá trị dân tộc, bản sắc, văn hóa và tôn giáo. Đôi khi họ có xu hướng về một nền kinh tế và một xã hội chỉ riêng cho đất nước, dân tộc của họ mà thôi. Ưu tư của họ là kinh tế và xã hội phải nghiên về phục vụ lớp bình dân hơn.

Vì chủ trương cho đất nước dân tộc trước hết nên những người “Đầu trọc” và tổ chức cực hữu bị tố cáo là những người bài ngoại, kỳ thị chủng tộc. Ở Pháp, một chánh trị gia hay một chánh khách nào lớn tiếng tuyên bố “Tôi tranh đấu trước hết cho nước Pháp” lập tức sẽ bị phe tả công kích là cực hữu, là quốc xã, tân quốc xã, phát-xít,…Còn phe hữu thì nhấn mạnh đừng quên tư tưởng “cộng hòa”. Trong lúc đó, tư tưởng, chủ thuyết, chủ nghĩa cực tả như cộng sản lại không bị phê phán.

Theo nhà chánh trị địa lý, Bà Béatrice Giblin-Delvallet, hiện nay, phong trào cực hữu vươn mạnh lên ở Âu châu là do những người hồi giáo tới Âu châu ồ ạt, sự toàn cầu hóa làm mất công ăn việc làm cho giới công nhơn lao động tại chổ và Liên hiệp Âu châu không đủ khả năng xóa những dị biệt giữa các quốc gia hội viên.

Đặc điểm của Skinhead là phải tạo được một không gian sanh hoạt cho mình trước quần chúng và biến không gian này trở thành một thứ sản phẩm hấp dẩn cao cấp của cách mạng thường xuyên trong đời sống hằng ngày.

Skinhead trước nhứt phải là người của từng lớp thợ thuyền, do quan hệ nguồn gốc gia đình thợ thuyền hay tự mình xác nhận và gia nhập, có việc làm hay không, làm việc hay không, việc làm thuộc nghành nghệ thuật, công nhơn, việc làm hợp lệ hay không, … đều không quan trọng. Skinhead phải biết đoàn kết với thành phần xã hội của mình, phải có ý muốn tạo một không gian mới, giải phóng và cách mạng và điều này sẽ lan rộng ra trên khắp thế giới.

Không có một người Skinhead nào không huởng ứng lời kêu gọi biểu tình và không biết điều gì khác hơn là tham gia vào một sanh hoạt mới có ý nghĩa đồng thời xác định sự hiện diện của những người Skinheah trong xã hội.

Đặc điểm của những người “Đầu trọc” là có nguồn gốc nhưng không có lãnh tụ và họ không bao giờ muốn có lãnh tụ. Do đó, họ không phải là mác-xít, không phải là lê-ni-nít, mao-ít, hay bất cứ cái gì là “ít”. Họ không xây dựng tượng, thánh đường, …và không bao giờ đem xác chết, dầu có ướp hay không ướp, vào lăng mộ. Họ để dành xác chết cho sâu bọ, ruồi nhặng thanh toán, không gian cho bồ câu và người không gian. Tóm lại những người “Đầu trọc” (Skinheads) không thờ thần tượng, không cầu nguyện, không vang xin, không yêu sách nhưng họ nhận tất cả gì thuộc về quyền lợi của họ.

Những người “Đầu trọc” (Skinheads) thừa nhận thực tế là xã hội có chia ra làm nhiều từng lớp khác nhau. Họ chủ trương không nhìn nhận từng lớp trưởng giả, chánh trị gia, vì những người này thường khéo léo khai thác sự hiện diện và hoạt động của họ cho những mục tiêu riêng.

Những người “Đầu trọc” (hay Skinheads) sở dĩ từ khước những liên hệ nhân xã như vậy vì ngay từ gốc họ đã phủ nhận mọi cái “isme” như giá trị qui chiếu. Họ là Skinhead mà không bao giờ là “SkinheadISME” hết cả. Họ không muốn để cái “isme” biến đổi giá trị văn hóa căn bản của những người Skinheads, làm cho nó bị hạn chế, đóng khung và từ đó trở thành một thứ chủ thuyết khô khốc, không còn sức nảy nở. Nhờ đó, phong trào Skinhead thoát khỏi cộng sản, thứ cộng sản thư lại và độc tài ác ôn, tự nó cũng đã phủ nhận cái cộng sản ban đầu. Tức cái “isme” này phủ nhận cái “isme” kia !

Những cái “isme” không gì khác hơn là những công cụ biến đổi tư tưởng con người của một thời điểm thành những chủ thuyết đóng khung, hạn hẹp, khô cứng, không khả năng phát triển.

Việt nam tục hậu về mọi mặt, chứa đựng đủ loại tham những, ác ôn vô phương thay đổi chỉ vì bị cai trị bỡi cái đảng tận cùng bằng thứ “ít” (Parti communiste), hệ thống tư tưởng tận cùng bằng “isme” - communisme và cái vô duyên không thể tả là cái " hochiminhisme " (cái gọi là “tư tưởng hồ chí minh”) !

Nguyễn thị Cỏ May

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.