Hôm nay,  

Những Cái isme

19/06/201300:00:00(Xem: 11939)
Trong tiếng pháp, có một số từ ngữ tận cùng bằng “isme” để chỉ một quan niệm, một nếp sanh hoạt hay một trào lưu tư tưởng. Nhưng cũng tiếp vĩ ngữ “isme “ ấy trong một số trường hợp diển tả một ý nghĩa xấu.

Tiếp vĩ ngữ “isme” hiện diện nhiều trong triết học, chánh trị, kinh tế, tôn giáo,... Nhiều từ ngữ được tạo ra với “isme” vào thế kỷ XIX và XX để chỉ những trào lưu tử tưởng lớn chi phối mạnh đời sống của hai thế kỷ nay.

Về cách cấu tạo, tiếp vĩ ngữ có thể ghép với danh từ chung như “le roi” (ông vua)- “le royalisme” (tư tưởng hay chủ trương bảo hoàng), với danh từ riêng như Ông “Marx” – “le marxisme” (chủ thuyết mác-xít), tỉnh từ như “colonial” (thực dân) – “le colonialisme” (chủ nghĩa thực dân), …

Tiếp vĩ ngữ “isme”, như đã nói, trong một số trường hợp, hàm nghĩa xấu. Hồi giáo là “islam “ nhưng “islamisme” có nghĩa là hồi giáo quá khích, thứ hồi giáo chủ trương khủng bố chống lại các tôn giáo khác hoặc nền văn minh không hồi giáo, như thiên chúa giáo hay tư tưởng dân chủ, tự do.

“Social” là xã hội bao gồm chủ trương, sanh hoạt nhằm phục vụ đời sống con người nhưng “socialisme” là chủ thuyết/ chủ nghĩa xã hội, một hệ thống chánh trị tổ chức xã hội dưới sự chỉ huy tập trung, tức độc tài nên tham nhũng và gian ác hoành hành triệt để như ở Việt nam ngày nay.

Tiếp vĩ ngữ “isme” làm mất đi ý nghĩa của chữ gốc. Trong tiếng việt nam vì tiếng đơn âm, muốn nói ý nghĩa của tiếp vĩ ngữ “isme” phải ghép thêm “chủ thuyết» hay “chủ nghĩa”. Như “le socialisme”, thì phải nói “chủ nghĩa xã hội”, “le communisme” là “chủ nghĩa cộng sản”.

Tóm lại, tiếng gốc có nghĩa tốt, bình thường nhưng khi ghép với “isme” ý nghĩa của nó bị thay đổi hoàn toàn. “Isme” cũng đóng khung cứng ngắt ý nghĩa của chữ. Cả tư tưởng hay suy nghĩ của con người.

Mượn “isme”, chúng ta thử lan man qua chữ nazi, viết tắc của “nationalsozialismus” và phong trào “Đầu trọc” (Skinhead) ở Âu châu và ở Pháp.

Nguồn gốc “Đầu trọc” (Skinhead)

Muốn hiểu qua vài nét về phong trào “Đầu trọc” ở Âu châu, chúng ta thử trở về những năm đầu của thế kỷ XX trước khi cuộc khủng hoảng lớn bùng nổ ở Đức (1929-1930). Đảng quốc xã của những người lao động người Đức - viết tắc là NAZI - trước kia chỉ là một tổ chức cực hữu của hệ thống chánh đảng Đức. Trong kỳ bầu cử Quốc hội năm 1928, đảng NAZI chiếm được 2,6% phiếu, một dấu hiệu thụt lùi so với kỳ bầu cử trước năm 1924 (3%). Cuộc bầu cử này đưa vào Chánh quyền một Liên minh lớn gồm đảng Quốc xã, đảng Công giáo, đảng Dân chủ đức và đảng Nhơn dân đức. Liên minh nắm quyền suốt sáu tháng đầu trong thời kỳ khủng hoảng.

Từ năm 1930, khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng mạnh lên đời sống quốc gia, làm cho công nhơn thất nghiệp lên tới 30%. Hằng triệu người Đức phản ứng. Họ kết hợp khủng hoảng kinh tế với nỗi nhục của đất nước sau khi Đức thất bại Đệ I Thế chiến. Dân chúng cho rằng Liên minh quá yếu không đủ sức đưa nước Đức thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng. Nghèo đói ở khắp nơi, lo sợ tương lai còn đen tối hơn nữa, giận dử và sốt ruột trước những thất bại của chánh phủ đối phó với nạn khủng hoảng, dân chúng lợi dụng tình hình đất nước khó khăn nhưng thuận lợi cho sự thay đổi nên vận động ủng hộ đảng Quốc xã (NAZI) với Adolf Hitler lên cầm quyền.

Hitler là một nhà hùng biện tài ba hấp dẩn mảnh liệt quần chúng. Ông biết khai thác sự tức giận và sự bất lực của một số lớn cử tri. Ông thu hút được một số lớn dân chúng Đức đang mong muốn thay đổi. Đảng Quốc xã vận động tranh cử hứa hẹn đưa nước Đức ra khỏi sự khủng hoảng. Đảng Quốc xã cam kết phục hồi những giá trị văn hóa của xứ sở, hủy bỏ những điều khoản của Hiệp ước Versailles bất bình đẳng, ngăn chận mối hăm dọa một cuộc cách mạng cộng sản nổi lên, đem lại công ăn việc làm cho công nhơn lao động và khôi phục lại vị trí cường quốc trên thế giới cho nước Đức.

Đảng Quốc xã trong cuộc bầu cử sau đó thắng lớn bèn hướng sự giận dử và sợ hải của dân chúng nhằm vào do thái, cộng sản và những người mà họ buộc tội có trách nhiệm ký Hiệp ước Versailles, cũng như thiết lập nền Cộng hòa Đại nghị. Hitler và đảng Quốc xã khép những người này vào “tội phạm tháng 11”.

Qua giữa tháng 7 năm 1933, Quốc hội chuyển cho Hitler toàn quyền và đảng NAZI trở thành đảng độc tôn cai trị nước đức.

Đức thất trận trong Thế chiến II, Hitler chết, đảng viên Quốc xã bị đưa ra Tòa án nhơn quyền. Sự việc này vội chôn vùi sự kiêu hảnh dân tộc trước đây. Ngày nay ở Đức, ở Pháp và Âu châu, nhiều nhóm thanh niên xuất hiện như để biểu hiện cái oai hùng xưa, do bất mãn đời sống xã hội hiện tại. Nhưng lớp trẻ bất mản xã hội, chánh giới, muốn một sự bùng vở để thay đổi cái hiện tại, không chỉ riêng ở Âu châu vì thừa hưởng cái kiêu hùng của Đức quốc xã và cái mặc cảm sau khi Đức quốc xã tàn lụi, mà hiện tượng này hầu như có mặt ở khắp nơi trên thế giới như Anh - thường những hiện tượng xã hội loại này bắt đầu ở Anh rồi mới lan ra các nơi khác – như Canada, Nhựt, …

Nhận diện “Đầu trọc” (Skinhead) và tổ chức cực hữu

“Đầu trọc” (Skinhead) nhìn thấy ở Âu châu và các nơi khác là những cá nhơn thuộc thành phần thợ thuyền và phải biết say mê âm nhạc jamaicaine (xứ Jamaique ở trong vùng biển Caraibes). Skinhead bị khép vào thành phần cực hữu, thứ “Tân Quốc xã” (Néo-nazisme).

Skinhead được định nghĩa là những người trẻ, những nhóm, phong trào, tổ chức, đảng phái, …nghiên về quá hữu của chánh trị, văn hóa, tôn giáo,…

Khi những người “Đầu trọc” thuộc cực hữu, về chánh trị, lập trường của họ thường không rỏ ràng, dứt khoát hẳn. Vì vậy, từ ngữ “cực hữu” chỉ những nhóm, những tổ chức chánh trị và bao gồm luôn phát-xít hay tân phát-xít, quốc xã hay tân quốc xã, những nhóm truyền thống hay toàn thống, tức quá khích, những thái độ kỳ thị chủng tộc hoặc phân biệt đối xử, cho tới cả những đảng phái quốc gia cực đoan hoặc “vì nhân dân - thật ra là mị dân” (populisme).

Về tổ chức chánh trị như đảng phái, trong ngôn ngữ chánh trị ở Anh, cực hữu được gọi là “hữu cấp tiến” vì nó ở giới hạn của hữu dân chủ, tự do hoặc bảo thủ. Có khác nhau về tổ chức, chủ trương, nhưng nền tảng ý hệ của họ có những điểm chung : lòng ái quốc, tinh thần quốc gia và truyền thống mạnh, có khi trở thành cực đoan. Họ bám vào những giá trị dân tộc, bản sắc, văn hóa và tôn giáo. Đôi khi họ có xu hướng về một nền kinh tế và một xã hội chỉ riêng cho đất nước, dân tộc của họ mà thôi. Ưu tư của họ là kinh tế và xã hội phải nghiên về phục vụ lớp bình dân hơn.

Vì chủ trương cho đất nước dân tộc trước hết nên những người “Đầu trọc” và tổ chức cực hữu bị tố cáo là những người bài ngoại, kỳ thị chủng tộc. Ở Pháp, một chánh trị gia hay một chánh khách nào lớn tiếng tuyên bố “Tôi tranh đấu trước hết cho nước Pháp” lập tức sẽ bị phe tả công kích là cực hữu, là quốc xã, tân quốc xã, phát-xít,…Còn phe hữu thì nhấn mạnh đừng quên tư tưởng “cộng hòa”. Trong lúc đó, tư tưởng, chủ thuyết, chủ nghĩa cực tả như cộng sản lại không bị phê phán.

Theo nhà chánh trị địa lý, Bà Béatrice Giblin-Delvallet, hiện nay, phong trào cực hữu vươn mạnh lên ở Âu châu là do những người hồi giáo tới Âu châu ồ ạt, sự toàn cầu hóa làm mất công ăn việc làm cho giới công nhơn lao động tại chổ và Liên hiệp Âu châu không đủ khả năng xóa những dị biệt giữa các quốc gia hội viên.

Đặc điểm của Skinhead là phải tạo được một không gian sanh hoạt cho mình trước quần chúng và biến không gian này trở thành một thứ sản phẩm hấp dẩn cao cấp của cách mạng thường xuyên trong đời sống hằng ngày.

Skinhead trước nhứt phải là người của từng lớp thợ thuyền, do quan hệ nguồn gốc gia đình thợ thuyền hay tự mình xác nhận và gia nhập, có việc làm hay không, làm việc hay không, việc làm thuộc nghành nghệ thuật, công nhơn, việc làm hợp lệ hay không, … đều không quan trọng. Skinhead phải biết đoàn kết với thành phần xã hội của mình, phải có ý muốn tạo một không gian mới, giải phóng và cách mạng và điều này sẽ lan rộng ra trên khắp thế giới.

Không có một người Skinhead nào không huởng ứng lời kêu gọi biểu tình và không biết điều gì khác hơn là tham gia vào một sanh hoạt mới có ý nghĩa đồng thời xác định sự hiện diện của những người Skinheah trong xã hội.

Đặc điểm của những người “Đầu trọc” là có nguồn gốc nhưng không có lãnh tụ và họ không bao giờ muốn có lãnh tụ. Do đó, họ không phải là mác-xít, không phải là lê-ni-nít, mao-ít, hay bất cứ cái gì là “ít”. Họ không xây dựng tượng, thánh đường, …và không bao giờ đem xác chết, dầu có ướp hay không ướp, vào lăng mộ. Họ để dành xác chết cho sâu bọ, ruồi nhặng thanh toán, không gian cho bồ câu và người không gian. Tóm lại những người “Đầu trọc” (Skinheads) không thờ thần tượng, không cầu nguyện, không vang xin, không yêu sách nhưng họ nhận tất cả gì thuộc về quyền lợi của họ.

Những người “Đầu trọc” (Skinheads) thừa nhận thực tế là xã hội có chia ra làm nhiều từng lớp khác nhau. Họ chủ trương không nhìn nhận từng lớp trưởng giả, chánh trị gia, vì những người này thường khéo léo khai thác sự hiện diện và hoạt động của họ cho những mục tiêu riêng.

Những người “Đầu trọc” (hay Skinheads) sở dĩ từ khước những liên hệ nhân xã như vậy vì ngay từ gốc họ đã phủ nhận mọi cái “isme” như giá trị qui chiếu. Họ là Skinhead mà không bao giờ là “SkinheadISME” hết cả. Họ không muốn để cái “isme” biến đổi giá trị văn hóa căn bản của những người Skinheads, làm cho nó bị hạn chế, đóng khung và từ đó trở thành một thứ chủ thuyết khô khốc, không còn sức nảy nở. Nhờ đó, phong trào Skinhead thoát khỏi cộng sản, thứ cộng sản thư lại và độc tài ác ôn, tự nó cũng đã phủ nhận cái cộng sản ban đầu. Tức cái “isme” này phủ nhận cái “isme” kia !

Những cái “isme” không gì khác hơn là những công cụ biến đổi tư tưởng con người của một thời điểm thành những chủ thuyết đóng khung, hạn hẹp, khô cứng, không khả năng phát triển.

Việt nam tục hậu về mọi mặt, chứa đựng đủ loại tham những, ác ôn vô phương thay đổi chỉ vì bị cai trị bỡi cái đảng tận cùng bằng thứ “ít” (Parti communiste), hệ thống tư tưởng tận cùng bằng “isme” - communisme và cái vô duyên không thể tả là cái " hochiminhisme " (cái gọi là “tư tưởng hồ chí minh”) !

Nguyễn thị Cỏ May

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau 35 năm Đổi mới (1986-2021), đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) đã thất bại trong hai công tác: “Xây dựng, chỉnh đốn đảng” và “Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Theo tác giả Phạm Trần thì nguyên do cho sự thất bại ấy chính là đảng Cộng Sản Việt Nam, bởi vì “… dù chuyện lớn hay nhỏ ở Việt Nam đều do đảng đề xướng và thi hành, nên thất bại hay thành công cũng là trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Nhưng nếu cứ thất bại mãi như công tác Xây dựng, Chỉnh đốn đảng đã chứng minh, hay chống tham nhũng mà quan tham mỗi ngày một nhiều thêm thì có phải cái gốc sinh ra những con người tha hóa không phải từ đảng thì ai vào đây?” Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Một bài khảo luận đặc sắc của tác giả Đỗ Kim Thêm về khái niệm Tự do - Dân chủ. Tác giả quy chiếu tiến trình phát triển của nền dân chủ tại các xã hội Tây phương như Anh, Mỹ từ thời Trung đại và nhìn vào thực tế đất nước Việt Nam ở thời hiện đại để nhận ra một thực trạng não lòng, và đành kết luận: “Cuối cùng, kết luận ở đây là bao lâu mà Hiến pháp mãi còn là bản sao Nghị quyết của Đảng và quyền tự do là một tặng phẩm của chính quyền, thì ánh sáng văn minh của thế kỷ XXI còn mờ mịt và bất hạnh này còn kéo dài”. Việt Báo hân hạnh giới thiệu.
Tư tưởng Phật là thăng hoa, vượt lên thân phận cay đắng, nghiệt ngã của kiếp người và hành động của Phật là cứu độ, hòa bình và thân ái. Trong Phật có Nho nhưng trong Nho không có Phật. Trong Phật có Lão nhưng trong Lão không có Phật. Dù nói Tam Giáo Đồng Quy nhưng Phật siêu việt lên trên giống như đỉnh ngọn tháp.
Tôi mới chỉ có dịp được biết thêm về Trương Tửu qua những bài tiểu luận viết với công tâm của vài vị thức giả thôi (Thụy Khuê, Lê Hoài Nguyên, Đỗ Ngọc Thạch, Lại Nguyên Ân…) nhưng cũng đã có được một hình ảnh về một Trương Tửu khác. “Ai kiềm chế được quá khứ, kẻ đó kiểm soát được tương lai. Ai kiểm soát được hiện tại, kẻ đó kiềm chế được quá khứ. Who controls the past, controls the future; who controls the present, controls the past.” Khi viết dòng chữ trên, trong tác phẩm Nineteen Eighty Four, vào năm 1948, George Orwell đã có thể hình dung ra được tất cả những thủ đoạn ma mãnh (của những chế độ toàn trị) trong việc ngụy tạo lịch sử. Điều mà George Orwell không ngờ tới là kỹ thuật truyền thông tân tiến ngày nay đã đưa nhân loại bước vào Thời Đại Thông Tin. Ở thời đại này, mọi cố gắng đánh tráo dĩ vãng đều trở thành vô vọng, và chỉ tạo ra được những trò hề lố bịch mà thôi.
Nhân sự việc Hoa Kỳ không mời Việt Nam tham gia Hội nghị Thượng đỉnh về Dân chủ tuần lễ vừa qua, tác giả Điệp Mỹ Linh đã có một bài chính luận đầy phẫn nộ về nhà nước và đảng Cộng sản Việt Nam. Kính mời bạn đọc theo dõi.
Sau khi Phật nhập diệt, ngài Đại Ca Diếp đã nhanh chóng kêu gọi huynh đệ kết tập lần đầu, lưu lại lời giáo huấn của Ân-Sư. Sau nhiều thập niên bị hoàn cảnh lịch sử gián đoạn, Trưởng-tử Như Lai và hàng tứ chúng khắp các châu lục cũng đang gọi nhau về, cùng góp tâm lực khởi công lần đầu kết tập phiên dịch Đại Tạng Kinh ra Việt ngữ, hầu tiếp nối hoài bão Chư Vị Minh Sư phải bỏ dở dang!
Sau hơn 30 năm Liên bang Xô Viết sụp đổ, nhân dân Nga và khối các nước Đông Âu đã được hưởng những chế độ dân chủ, tự do. Ngược lại, bằng chính sách cai trị độc tài và độc đảng, Đảng CSVN đã dùng bạo lực và súng đạn của Quân đội và Công an để bao vây dân chủ và đàn áp tự do ở Việt Nam. Trích dẫn chính những phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam, tác giả Phạm Trần đưa ra những nhận định rất bi quan về tương lai đất nước, mà hiểm họa lớn nhất có lẽ là càng ngày càng nằm gọn trong tay Trung quốc. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Kết qủa của cuộc bầu cử vào ngày 26/9/2011 là ba đảng Dân chủ Xã hội (SPD), Xanh (Grüne) và Dân chủ Tự do (FDP) chiếm được đa số tại Quốc hội. Để nắm quyền cai trị trong bốn năm tới, các đảng này phải thoả hiệp nhau để tìm ra một đường lối chung định hình cho một chính sách liên minh mới mà báo chí gọi tắt theo một biểu tượng là “đèn hiệu giao thông”, bao gồm ba màu đỏ, (đảng SPD) xanh lá cây (đảng Xanh) và vàng (đảng FDP). Nói chung, đảng Xanh quan tâm đến việc bảo vệ môi trường, đảng FDP phát huy tự do cho nền kinh tế thị trường trong khi đảng SPD ưu tiên bảo vệ công bình xã hội, quyền lợi công nhân và tôn trọng nhân quyền. Ngày 21/10, 22 nhóm chuyên gia của ba đảng bắt đầu các cuộc họp chuyên đề và đúc kết các dị biệt trong một văn bản chung quyết để thỏa thuận việc cầm quyền được gọi là Koalitionsvertrag (Hợp đồng Liên Minh), được mệnh danh là "Mehr Fortschritt wagen“ (Dám tạo ra nhiều tiến bộ). Kết quả này được trình bày trước công luận và báo chí vào ngày 26/1
Tác giả Bảo Giang ghi nhận: “Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất phơ là y như có sự chết rình rập." Tại sao vậy? Để có câu trả lời, mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của nhà văn Tưởng Năng Tiến.
Người cộng sản là những “kịch sĩ” rất “tài”, nhưng những “tài năng kịch nghệ” đó lại vô phúc nhận những “vai kịch” vụng về từ những “đạo diễn chính trị” yếu kém. – Nguyễn Ngọc Già (RFA).. Mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của phó thường dân/ nhà văn Tưởng Năng Tiến để nhìn thấy thêm chân diện của người cộng sản.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.