Hôm nay,  

Câu Chuyện Detroit Phá Sản

30/07/201300:00:00(Xem: 11180)
...gần một nửa số nợ, khoảng 9 tỷ, là nợ lương, trợ cấp, và tiền hưu cho các công chức...

Dân tỵ nạn ta nghe nói đến những chuyện ông này bà kia phá sản, hay công ty này hãng nọ phá sản là chuyện bình thường thôi. Trong kinh doanh, có lời có lỗ, có ăn có thua. Nhưng chuyện cả một tỉnh hay một thành phố phá sản thì nghe quả có hơi lạ tai.

Trung tuần tháng này, thành phố Detroit khai phá sản. Đây là một trong những thành phố lớn nhất Mỹ, thủ phủ của kỹ nghệ xe hơi Mỹ, đại bản doanh của ba hãng Ford, General Motors, và Chrysler, cùng với hàng ngàn công ty lớn nhỏ hoạt động trong kỹ nghệ phụ tùng xe hơi.

Mà Detroit không phải là thành phố đầu tiên khai phá sản. Trong vài chục năm qua, đã có hơn 60 thành phố và quận hạt (county) khai phá sản. Gần đây nhất là các thành phố Stockton, Vallejo, và San Bernardino tại Cali. Trong ba thành phố, Stockton là lớn nhất, nhưng tính theo dân số chỉ chưa bằng nửa Detroit. Detroit là thành phố lớn nhất của của tiểu bang Michigan, tuy không phải là thủ phủ của tiểu bang.

Tại sao một thành phố lại có thể khai phá sản? Trong chế độ xã hội chủ nghiã, hay ngay cả trong các chế độ như VNCH trước đây, các tỉnh, thành phố đều gần như là sở hữu của Nhà Nước. Chính quyền trung ương lo việc quản lý về đủ mọi phương diện, từ chính trị như bổ nhiệm tỉnh trưởng, thị trưởng, công chức, cho đến tài chánh, xã hội, kinh tế, giáo dục, y tế, v.v... Tất cả đều phải theo một khuôn quản lý theo chính sách của trung ương, thông thường là qua một cơ quan ta gọi là Bộ Nội Vụ. Nhất là tài chánh, chuyện chi thu do Nhà Nước quản lý, thu nhập Nhà Nước giữ, chi tiêu Nhà Nước trả.

Nhưng trong chế độ tư bản Mỹ, các tỉnh, thành phố (và ngay cả tiểu bang), đều gần như hoàn toàn độc lập về mọi phương diện, nhất là về tài chính và ngân sách. Tỉnh trưởng, thị trưởng, do dân bầu, chi thu do những người này quyết định. Ở Mỹ, bộ Nội Vụ là bộ lo về các vấn đề quản lý tài nguyên quốc gia, núi non, sông ngòi, biển cả, công viên, năng lượng, ...

Các đơn vị hành chánh này tự lo chuyện ngân sách, tạo nguồn thu nhập cũng như quản lý chuyện chi tiêu. Khi số thu nhập thấp, hay các chi tiêu cao, đưa đến mất cân bằng ngân sách, thì các đơn vị này phải đi vay mượn, căn bản là qua việc bán công khố phiếu của thành phố, gọi là municipal bonds. Khi ngân sách mất cân bằng quá nhiều, thì việc bán công khố phiếu sẽ khó khăn hay lãi suất phải trả sẽ cao vì những nhà đầu tư –thường là các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, các quỹ hưu trí- không còn tin tưởng vào khả năng trả nợ. Khi công khố phiếu không còn bán được nữa, tức là khi không còn ai chịu ứng tiền cho tỉnh thành vay mượn nữa, các đơn vị này sẽ không còn đủ khả năng để trả nợ, thì chỉ còn cách khai phá sản, tức là xin toà bảo vệ, cho phép ngưng trả nợ hay tái cơ cấu các món nợ lại để trả nợ bớt đi hay trả lâu dài hơn.

Trên căn bản, thu nhập của thành phố Detroit, cũng như hầu hết tất cả các thành phố khác, đến từ các thứ thuế địa phương như thuế nhà đất, thuế trường học, thuế rác, thuế cống rãnh, thuế xe hơi, phí xa lộ, phí cho các loại giấy phép kinh doanh, hành nghề, ... Một số lớn thành phố cũng tự quản lý hệ thống cung cấp điện nước, do đó tiền điện nước thiên hạ đóng cũng là thu nhập của thành phố. Thành phố không có quyền thu thuế lợi tức như chính quyền liên bang hay tiểu bang, nhưng có nhiều thành phố có chương trình chia sẻ thuế lợi tức với tiểu bang.

Về chi tiêu, căn bản là dành cho việc điều hành các dịch vụ hành chánh và trả lương công chức. Những dịch vụ tiêu biểu là giữ an ninh trật tự (cảnh sát), cứu hỏa, bảo trì đường phố, công sở, công viên, thư viện, trường học công, cơ quan y tế xã hội công của thành phố, và hệ thống chuyên chở công cộng.

Trên thực tế, chi tiêu lớn nhất của các thành phố thường là lương công chức. Ở đây, phải nói là lương công chức trên hầu hết các thành phố, nhất là các thành phố lớn, hoàn toàn bị chi phối bởi nghiệp đoàn các công chức, lớn nhất và mạnh nhất là Liên Đoàn các Công Chức Tiểu Bang, Quận Hạt, và Thị Xã –American Federation of State, County, and Municipal Employees hay AFSCME-. Nhờ sức mạnh của các nghiệp đoàn, các công chức thường được hưởng chế độ lương bổng rất hậu, đặc biệt là những quyền lợi như trợ cấp an sinh (bảo hiểm y tế), trợ cấp thất nghiệp, và lương hưu trí.

Detroit là thủ phũ kỹ nghệ xe hơi nên đại đa số dân lao động tại đây làm việc cho ba hãng xe lớn, trong đó các nghiệp đoàn rất lớn và rất mạnh. Khi dân lao động được hưởng những quyền lợi lớn thì các công chức cũng không chịu lép và các nghiệp đoàn của họ cũng tranh đấu để được những quyền lợi tương tự.

Nợ ngập đầu trả không nổi vì hụt thu so với thặng chi dĩ nhiên là lý do chính yếu cho mọi tình trạng phá sản. Ngân sách Detroit đã bị thâm thủng liên tục ngày một lớn, mỗi năm mấy trăm triệu đô từ năm 2008.

Thành phố Detroit lâm vào tình trạng tài chánh khó khăn từ nửa thế kỷ qua chứ không phải mới đây. Khó khăn chồng chất mà giải pháp không có, tình trạng ngày càng bi đát, do đó chuyện Detroit khai phá sản chẳng làm ai ngạc nhiên.

Với tư cách thủ phủ kỹ nghệ xe hơi Mỹ, khi ngành này gặp khó khăn thì đương nhiên là thành phố này cũng gặp khó khăn theo. Vận mạng của Detroit tùy thuộc kỹ nghệ xe hơi Mỹ. Cả ba hãng xe Mỹ đều trực diện với đe dọa phá sản từ cả chục năm nay, đưa đến tình trạng Nhà Nước, từ thời TT Bush đến thời TT Obama, phải nhẩy vào trực tiếp can thiệp, bơm hàng trăm tỷ vào để cứu, cứu ba hãng xe, cứu Detroit và cả tiểu bang Michigan, cứu hàng chục ngàn nhân công khỏi bị sa thải hàng loạt. Cho dù cứu được hàng chục ngàn người, nhưng cũng vẫn có hàng chục ngàn người khác bị mất job, nhất là trong các công ty nhỏ cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho ba hãng xe lớn. Khủng hoảng gia cư của những năm 2007-08 cũng đã đưa đến tình trạng giá nhà suy xụp, hàng ngàn người mất nhà. Hai yếu tố này hợp lại đưa đến tình trạng hàng chục ngàn người bỏ Detroit đi nơi khác sinh sống. Từ dân số gần hai triệu người trong thập niên 50, Detroit ngày nay chỉ còn chưa tới 700.000 dân.

Đại đa số dân bỏ tỉnh đi nơi khác là dân da trắng trung lưu, trong khi đại đa số dân còn ở lại là công nhân viên Nhà Nước và dân lao động làm việc trong kỹ nghệ xe hơi. Detroit ngày nay đã trở thành thành phố với gần 80% dân da đen, đại đa số là công chức và dân lao động nghèo không có tiền đóng thuế nhiều cho thành phố. Các kỹ sư, đại gia của các hãng xe, tuy đi làm trong Detroit và lãnh lương cao chót vót, nhưng đều cư ngụ trong các biệt thự đắt tiền ngoại ô Detroit. Thuế nhà đất và linh tinh khác, họ đóng cho các quận hạt và thành phố lân cận chứ không đóng cho Detroit. Lợi tức trung bình tính theo đầu người của Detroit chỉ là 15.000 đô trong khi lợi tức trung bình của vùng ngoại ô Gross Pointe là 100.000 đô.

Chính quyền thành phố mất hàng tỷ bạc thu nhập qua các loại thuế và phí, trong khi tiền nợ tiếp tục leo thang không ngừng. Những hợp đồng lao động Detroit ký với các nghiệp đoàn công chức không có dự trù chuyện cắt lương hay cắt bớt quyền lợi của công chức hay sa thải công chức, cho dù tình hình tài chánh của thành phố bết bát đến đâu cũng vậy. Detroit hiện có hơn 20.000 công chức đã về hưu, ngồi nhà lãnh lương hưu trí trung bình từ 30.000 đến 50.000 một năm, với đầy đủ bảo hiểm y tế cho gia đình. Ngày Detroit khai phá sản, thành phố mắc nợ từ 18 đến 20 tỷ. Con số chính xác chưa được công bố, nhưng người ta ước lượng gần một nửa số nợ, khoảng 9 tỷ, là nợ lương, trợ cấp, và tiền hưu cho các công chức.

Trong khi dân số tuột dốc 65%, từ gần hai triệu xuống khoảng 700.000, số lượng công chức không những không giảm mà vẫn tăng đều đều mỗi năm. Theo báo Detroit News, thành phố Detroit hiện nay có số công chức cao gấp hai lần các thành phố với dân số tương đương. Câu hỏi đặt ra là những công chức này làm gì cả ngày?

Khi mà chi phí công chức không cắt giảm được, và công chức cũng không thể sa thải được thì chính quyền địa phương chỉ còn cách cắt giảm các dịch vụ.

Các dịch vụ bình thường của thành phố đã xuống dốc thê thảm. Người ta ước lượng 40% đèn đường và 30% đèn xanh đỏ tại các ngã tư của thành phố đã không chạy, cảnh sát hay xe cứu thương phải mất trung bình gần một tiếng đồng hồ mới đến nơi kêu cứu được, so với trung bình hơn 10 phút trong cả nước. Hai phần ba các công viên thành phố đã đóng cửa từ 2008 vì không còn tiền bảo trì. Hệ thống điện toán của thành phố thuộc loại cổ lỗ sĩ nhất mà không có tiền cập nhật thông tin. Trên các trang mạng, tràn ngập hình ảnh những nhà cửa, khu thương mại hay công thự bỏ hoang, đổ nát, bao quanh bởi cỏ dại và rác rưới. Hàng trăm căn nhà được bán với giá tượng trưng một đô mà vẫn không có ai mua. Hơn 80.000 căn nhà bị bỏ hoang.

Trong khi tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước là khoảng 7%-8%, thì tỷ lệ thất nghiệp của Detroit là gần 19% nói chung, và gần 30% trong giới thanh niên da đen và da nâu gốc Nam Mỹ, cả hai tỷ lệ đều là cao nhất trong 50 thành phố lớn nhất Mỹ.

Detroit nổi tiếng không phải là thủ phủ của kỹ nghệ xe hơi nữa, mà là thủ phủ của... băng đảng, với hàng ngàn thanh niên không có việc gì làm và không có thu nhập gì, suốt ngày tụ họp đi kiếm tiền bằng cách buôn bán ma túy, ép các doanh nghiệp “đóng hụi chết”, hay làm những chuyện bất hợp pháp khác. Tỷ lệ phạm pháp trầm trọng như cướp của, giết người, của Detroit cao nhất nước Mỹ.

Khi kinh tế không ổn định thì tệ đoan xã hội cũng tăng trưởng mạnh, từ các nhóm băng đảng đến ngay cả cấp lãnh đạo thành phố. Detroit trong những thập niên qua, đã nổi tiếng là thành phố với tham nhũng hoành hành mạnh nhất. Cựu thị trưởng Kwame Kilpatrick đang chờ ngày hầu toà và có thể sẽ lãnh án 20 năm tù vì biển thủ và tống tiền doanh nghiệp, bán chức vụ. Nạn tham nhũng hoành hành trong thành phố nhưng ít ai dám công khai đặt vấn đề. Với 80% dân thành phố là da đen, hầu như tất cả các thị trưởng và viên chức dân cử cao cấp đều là dân da màu mà truyền thông ít dám đụng đến, cho “phải đạo chính trị”. Cựu thị trưởng Coleman Young đã từng khẳng định “chỉ trích Detroit là chỉ trích dân da đen, là kỳ thị màu da!”.

Đi xa hơn Detroit, việc thành phố này khai phá sản sẽ có ảnh hưởng trực tiếp lên rất nhiều thành phố hay quận hạt khác. Tính khả tín của công khố phiếu các tỉnh của Michigan sẽ bị xét lại và lãi suất có nhiều triển vọng sẽ gia tăng, khiến gánh nặng tài chánh của cả tiểu bang sẽ leo thang mau chóng. Rất nhiều tỉnh trên cả nước, nhất là các tỉnh trong các tiểu bang có chính sách xã hội cấp tiến hay lệ thuộc nghiệp đoàn, trả lương và bổng lộc công chức rất hậu hĩnh như Detroit, đang gặp khó khăn ngân sách như Detroit, sẽ nhìn kỹ cách Detroit giải quyết vấn đề, dùng biện pháp phá sản để hủy bỏ các món nợ về trợ cấp và tiền hưu quá cao, để bắt chước theo. Tiểu bang Cali là tiểu bang hàng đầu với khá nhiều thành phố lớn đang chú tâm theo dõi rất kỹ. Đây là một cuộc chiến giữa các chính quyền địa phương và các nghiệp đoàn, mà kết cuộc sẽ mang nhiều ý nghiã và hậu quả lớn lao. Không khác gì cuộc chiến giữa TĐ Scott Walker của tiểu bang Wisconsin chống các nghiệp đoàn từ mấy qua.

Chuyện Detroit khai phá sản cũng đã phơi bày ra ánh sáng một huyền thoại mà TT Obama đã khai thác tối đa trong khi tranh cử tổng thống với TĐ Romney. TT Obama luôn khoe công đã cứu kỹ nghệ xe hơi Mỹ, cứu hàng triệu việc làm, cứu Detroit nói riêng và cả tiểu bang Michigan nói chung. Trong khi tranh cử tại Detroit, ứng viên Obama hăm doạ một tổng thống Romney sẽ đưa Detroit đến tình trạng phá sản trong khi một tổng thống Obama sẽ không bao giờ để tình trạng này xẩy ra. Chỉ là một trong không biết bao nhiêu lời hứa hão khi tranh cử của một ứng viên dường như có “bùa ngải” khiến thiên hạ nhắm mắt tin bất cứ những gì ông ta hứa.

Sự thật là tính theo tỷ lệ thất nghiệp, Michigan đứng hàng thứ sáu trong 50 tiểu bang, và đứng hàng đầu trong tất cả các tiểu bang kỹ nghệ quanh Đại Hồ, gồm có Michigan, Wisconsin, Minnesota, Ohio, Illinois, và Pennsylvania.

Phe cấp tiến và các nghiệp đoàn đả kích những lập luận cho rằng Detroit phá sản vì gánh nặng lương bổng công chức, và cho rằng Detroit chết vì kỹ nghệ xe hơi Mỹ chết. Điều này có phần đúng nhưng không giải thích được tại sao Detroit chết khi kỹ nghệ xe hơi đã được phục hồi như TT Obama quảng bá. Theo báo cấp tiến Washington Post, gánh nặng trợ cấp và tiền hưu của công chức chính là nguyên nhân quan trọng nhất khiến Detroit phải khai phá sản.

Điều đáng nói là phe cấp tiến, chẳng những khư khư không nhìn nhận Detroit có những vấn nạn do chủ trương Nhà Nước vú em tạo ra, mà lại còn hô hào chính quyền Obama cần tiếp tay cứu Detroit như đã cứu các hãng xe, tức là lại bơm hàng trăm tỷ để cứu thành phố và tiếp tục nuôi dưỡng hàng chục ngàn công chức lè phè với lương lậu và bổng lộc cao ngất ngưởng.

Kinh tế gia Paul Krugman, người được mấy cụ già Na Uy trao giải Nobel kinh tế, nhận định trong kinh tế tư bản, có người thắng, có người thua, Detroit “chẳng may” –ông Krugman gọi là bad luck- là người thua thôi. Khi ông kinh tế gia với giải Nobel tuyên bố cả một thành phố bị phá sản là chuyện hên xui may rủi thì biện minh của phe cấp tiến trở thành một trò cười không hơn không kém. Người ta chỉ có thể đặt câu hỏi nếu kinh tế là chuyện hên xui may rủi thì kinh tế gia Krugman ngồi đó làm gì?

Detroit là bằng chứng rõ rệt nhất của sự thất bại của những chính sách kinh tế cấp tiến, dựa trên một Nhà Nước vú em, chi tiêu rộng rãi thả giàn, với hy vọng thu thuế “nhà giàu” để chi trả. Khi thuế thu không được nữa, vì kinh tế lụn bại, hay vì những người phải đóng thuế quá cao trốn thuế hay bỏ đi, thì chính sách kinh tế đó chỉ còn đường phá sản.

Detroit là hình ảnh của một Hy Lạp kiểu Mỹ, mà cũng là hình ảnh tương lai của cả nước Mỹ nếu chính sách kinh tế vú em của TT Obama không được kềm chế bớt. (28-07-13)

Vũ Linh

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.