Hôm nay,  

Người Em Gái Pleiku

03/08/201300:00:00(Xem: 12272)
“Em Pleiku má đỏ môi hồng.
Ở đây buổi chiều, quanh năm mùa đông.
Nên tóc em ướt và mắt em ướt nên em mềm như mây chiều trong…”


Vần thơ sầu mộng của thi sĩ Vũ Hữu Định được phổ thành lời trong bản nhạc “Còn Chút Gì Để Nhớ” đã lâu lắm rồi nhưng khi cất tiếng hát chiều nay, lòng tôi vẫn xao xuyến lạ thường! Bài thơ phải là chứng tích cho một chuyện tình lãng mạn… có thật. Nỗi lòng này như hơi lửa đã có lần sưởi ấm tâm hồn người chiến sĩ trên vùng trời cao nguyên giá buốt.

Tự nghĩ câu chuyện lòng ấy... có thật nên dù chưa đặt chân lên Pleiku một ngày, tôi cảm thông ngay được cảnh chiều quạnh hiu của bao kẻ xa nhà đi chinh chiến bơ vơ trên miền đất đỏ, hơi sương lạnh bay giữa những hàng thông... “may mà có em, đời còn dễ thương”.

Suy ngẫm đến những ân tình mà lời thơ trên có thể gởi gấm, tôi mạnh dạn ghi lại ý nghĩ của mình miên man tưởng tượng trong những tình huống khác nhau. Chẳng biết đúng hay sai nhưng bài thơ đẹp nào cũng thường ẩn ý, mặt nổi thì lãng mạn, mặt chìm thì đam mê… Tùy tác giả vần thơ bất hủ ấy hay người chiến sỹ năm xưa đã một thời ngang dọc trên vùng hỏa tuyến này, vô tình đọc đến đây mà còn nhớ đến kỷ niệm xa xưa… sẽ cho chúng ta biết tâm tình hư thực ra sao?

Pleiku.. địa danh khói lửa vùng Tây nguyên, người bản xứ đọc là “Plây Cu”, tiếng Anh hay Việt đều cùng một âm hưởng. “Em Plây Cu má đỏ môi hồng” nói lên hình ảnh thẹn thùng của nét mặt, chính thức bởi hai hiện tượng: tình yêu và khí hậu miền núi cao. “Ở đây buổi chiều, quanh năm mùa đông” do đó tiết trời cao nguyên về chiều thường là không gian lý tưởng cho những kẻ đang yêu… ôm nhau san sẻ hơi ấm trong giá lạnh. “Nên tóc em ướt…” hình ảnh sương khuya của thành phố “trời thấp thật buồn” đọng trên mái tóc tựa như Mộng Dưới Hoa của thi sĩ Đinh Hùng: “mây ngàn gió núi đọng trên mi” nhưng khi “mắt em ướt” thì chỉ có thể hiểu: một là hạnh phúc ngay bây giờ, hai là nỗi buồn vô thường của lứa đôi trong bối cảnh chiến tranh “ở đây với em chiều nay, mai đi rồi… anh sẽ còn trở lại hẹn hò nữa không?” “Mắt ướt” vì em khóc mối tình phù du chẳng khác gì ánh hỏa châu cuối trời… đêm đêm lóe sáng rồi tàn cũng rất vội! Cuối cùng “nên em mềm như mây chiều trong…” điều này tự nó đã đặt nên câu hỏi? “Mây chiều trong” có nghĩa mỏng, nhẹ nhàng một đám mây bay nhưng thân “em mềm như mây chiều” thì khó cảm nhận hơn nếu không “nghĩ sâu để hiểu” là em “ướt hết cả”… Khởi đầu là tóc và mắt vì bản chất lãng mạn của thi nhân nhưng thực sự là em ở trong trạng thái yêu đương dồn dập, đó là ý nghĩa của chữ “mềm” và chờ đợi dâng hiến mối tình chân thật với người tình phong sương chiến trận...


“Cảm ơn em, cảm ơn thành phố có em! Mai xa lắc trên đồn biên giới, còn một chút gì để nhớ để thương…” Còn gì đẹp hơn thế nữa khi một chiến sĩ quên thân mình và cả người yêu “má đỏ môi hồng” nơi hậu phương để nếu sống sót trên chiến địa “còn có chút tình để nhớ để thương”. Câu nói cuối cùng ấy thật hào hùng! Hình ảnh ly cà phê có cả hai vị ngọt đắng… ngọt thì ngọt đậm và đắng thì đắng chát trong mối tình “Người Em Gái Pleiku”.

Những hàng thông xanh trên cao nguyên thả bụi phấn vàng vào bầu “trời thấp thật gần” khi mùa xuân trở lại. Chẳng biết một ngày nào tôi có diễm phúc đến thăm phố núi Pleiku thực hiện chuyến “đi năm phút đã về chốn cũ” như lời thơ nhưng những ai đã từng quen, chắc không nên nhìn lại bởi vì người cũ hay cảnh cũ ít khi nào đẹp hơn hình ảnh đã một lần khắc đậm trong tim như triết gia đã diễn tả: “Không ai bơi được hai lần ở cùng một khúc sông…”

Tôi viết những dòng chữ này để kính tặng những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã một thời ngang dọc trên vùng núi Tây Nguyên, nhớ lại kỷ niệm êm đềm mà đời người nhiều khi chỉ qua một lần rồi thôi… Muốn nói với các anh rằng sự hy sinh ấy không vô nghĩa mà chính bộ đội đối phương đã là những “dã tràng se cát biển Đông, nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì!”. Câu ngụ ngôn này không cần phải dài dòng cắt nghĩa khi nhìn vào thời sự đất nước ngày hôm nay.

Các anh đã viết nên chuyện tình “Người Em Gái Pleiku” và khi xưa nhiều lúc đã “tận hưởng” mỗi lần may mắn được tiếp tế trong trại tù để thấy vị ngọt đến tận bao tử của một cục đường, vị đậm chát đến se lưỡi của vài hạt muối.

Những ý thức “tận hưởng” ấy không bao giờ xuất hiện trong cảnh đời thường. Tao hóa ở một khía cạnh nào đó rất công bằng bởi vì hiện tượng ấy chỉ hiển hiện song đôi với những hoàn cảnh khắc nghiệt. Còn lại mọi nơi, mọi lúc, mọi người giữa cuộc sống bình thường chỉ vỏn vẹn hai chữ “tạm hưởng” nhất là định cư tại một đất nước an bình và đầy đủ vật chất như ngày hôm nay.

“Cảm ơn thành phố có em”! Đó là lời ca của các anh khi từ giã người yêu, còn riêng tôi viết kể lại chuyện tình “Người Em Gái Pleiku” một cách thô thiển để cảm ơn chính các anh, những người lính Việt Nam Cộng Hòa thua trận nhưng chính nghĩa mãi mãi trường tồn trong lòng dân tộc.

Cao Đắc Vinh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.