Hôm nay,  

Về Miền Nam

03/09/201300:00:00(Xem: 7930)
Đời người ngắn ngủi, xa xứ 35 năm, chưa một lần về thăm lại quê hương, là một khoản thời gian khá dài cho một người như Cỏ May. Thuở nhỏ, sống với cha mẹ ở nhà quê, giữa đồng ruộng, hằng ngày chăn vịt, giử trâu, cứ tưởng như vậy là yên phận một đời người ở miền đồng chua, nước mặn cách Sài gòn không quá hai mươi km về hướng Tây. Vận nước biến đổi đã đưa đẩy nhiều nông dân phải rời bỏ ruộng nương lên Sài gòn lánh nạn. Nạn Việt Minh ban đêm, nạn Tây bố ban ngày. Sau 75, dân chúng bình thường, gốc gác Sài gòn hay từ đồng quê tới trước đây, ai có điều kiện, đều lần lượt bỏ nước ra đi lánh nạn. Lần này, chỉ lánh có một thứ nạn, nạn ngày và nạn đêm, đó là nạn cộng sản đến làm giải phóng quê hương.

Vì không về được thăm viếng lại quê hương với đồng ruộng ngày xưa mà Cỏ May, từ nhiều năm nay, cứ độ Hè về, trời nắng ấm, thường tìm cơ hôi đi về Miền nam. Không phải Miền nam Việt nam, mà là Miền nam xứ Pháp. Nơi đây có những cánh đồng ruộng lúa ngập nước không khác đồng lúa miền quê Gia định, Long An, Mỹ Tho. Trước Thế chiến II, những người Việt nam bị cưỡng bách qua Pháp làm lao động không lương cho Nhà nước Bảo hộ đã đem cách canh tác, với giống lúa ở Việt nam, áp dụng trên những cánh đồng ngập nước vùng Camargue và đã biến những cánh đồng này từ đó trở thành một vùng đồng lúa bát ngát. Mỗi năm thu hoạch đem lại cho nước Pháp gần trăm tấn gạo phụ thêm lương thực cho nước Pháp những năm khó khăn vì chiến tranh. Lúa cấy ở đồng Camargue ngày nay được Viện nông nghiệp pháp cải tiến, tạo thêm nhiều giống lúa khác nhau. Nông dân mở rộng thêm diện tích canh tác. Trên thị trường pháp, gạo Camargue xuất hiện khá nhiều. Trong siêu thị, gạo Camargue bày bán trong những bao 1kg, với nhiều thứ khác nhau, gạo đen, gạo đỏ, gạo trắng, hột tròn, hột dài, trắng có, lứt có. Giá cả cũng ngang ngửa với các loại gạo quen thuộc khác.

Tại thành phố Arles hãy còn một nhà máy xay lúa kiểu xưa ở Việt nam nhưng ngày nay chỉ được bảo quản như một di tích lịch sử.

Những người làm ruộng đầu tiên ở đây là một số trong 20 000 người "lính thợ" bị bắt đưa qua Pháp vào cuối năm 1929 và đầu năm 1930. Thật ra, họ không phải là lính vì không được huấn luyện để đánh giặc, mà chỉ làm công không chuyên môn trong các xưởng kỹ nghệ phục vụ chiến tranh. Tên gọi chánh thức là ONS (Ouvriers Non Spécialisés) = Thợ không chuyên môn.

Họ bị bỏ quên nhưng những ai về Mìền nam nên biết ở Miền nam nắng ấm này, hiện nay, còn hơn mươi người sanh sống với tuổi đời ngoài chín mươi.

Hà nội vẫn bên bờ sông Lot

Tháng Tám Tết Hà nội là cách nói để đề cặp tới Lễ Hội hằng năm tổ chức vào giữa tháng Tám tại "Trung tâm tiếp quản Những người Pháp Đông dương" (CAFI = Centre d'Accueil des Français d'Indochine). Trại này tọa lạc bên cạnh nhánh sông Lot, bên ngoài thành phố Sainte Livrade sur Lot thuộc Tỉnh Lot-et-Garonne. Nhưng người dân ở Trung tâm và dân địa phương vẫn quen gọi là Trại (Camp) như Trại lính, Trại tù. Dân thành phố Sainte-Livrade có người còn xa lạ, tuy đã hơn nửa thế kỷ qua, nên vẫn gọi đó là "Trại Ba tàu" để trả lời người hỏi thăm đường đi tới đó.

Dân trong Trung tâm, nói là "Tây đông dương" (Français d'Indochine) nhưng kỳ thật họ đều là người Việt nam hà nội thuần túy hoặc lai, cha hay mẹ là người Pháp đi lính hoặc làm việc trong chánh quyền pháp thời thực dân.

Năm 1956, trong lúc cả triệu người rời bỏ quê hương, chen nhau xuống tàu há mồm vào Nam tỵ nạn cộng sản, thì có 1600 người phần lớn phụ nữ với bầy con dại, được chánh quyền pháp cho xuống tàu chở tới bến Marseille rồi đưa thẳng về Trại Sainte-Livrade cho ở đó. Có gọi nơi này là trại thì cũng đúng thôi vì đó là trại lính bỏ trống từ sau thế chiến II. Những dãy nhà xây cất với vật liệu đơn sơ, thiếu mọi tiện nghi tối thiểu cần thiết cho đời sống. Nước và nhà vệ sinh ở bên ngoài. Thoát nước bằng hệ thống cống lộ thiên. Trợ cấp không đủ. Đi làm việc thì không có việc làm, ngoài làm công trong vài nhà máy, hoặc làm rẩy, hái hoa màu theo mùa,... với đồng lương chết đói. Đời sống trong trại không khác như lúc còn ở Miền Bắc đang chiến tranh. Đi ra vào bị kiểm soát chặt chẻ đề phòng bạo loạn và phá hoại. Ban Quản lý trại là những quân nhơn được đào tạo về an ninh nên họ nặng tinh thần đề cao cảnh giác. Trưóc mắt họ mọi người đều có thể là kẻ địch nguy hiểm. Qui chế áp dụng cho trại không khác nhà binh. Đôi lúc còn áp dụng "thiết quân lực" (couve-feu). Cho tới năm 1961, trong trại mới tổ chức lớp học cho trẻ con đi học, từ vở lòng tới Tiểu học năm 14 tuổi. Sau đó, trẻ con được cưỡng bách chuyển nghề. Thường phải học những nghề không phù hợp năng khiều và không đượcc học phổ thông lên trung học.

Những biện pháp khắc khe vô lý này chỉ nhằm làm cho mọi người không muốn ở lại đây, phải sớm tìm đường đi nơi khác sanh sống. Nhưng phần lớn không dám đi vì không biết chữ, không biết nghề, với đàn con dại.

Từ năm 1961 cho tới năm 2005, chánh phủ pháp tuần tự có đưa ra 4 Nghị định nhìn nhận những "người Pháp Đông dương" là những công dân của Nhà nước Pháp từ lúc còn ở tại Việt nam nay có quyền được Nhà nước giúp đở theo tinh thần tiền văn của bản Hiến pháp năm 1946... Nhưng từ đó cho tới nay, những người này, thế hệ thứ I, Thứ II và thứ III, vẫn chưa được trợ cấp như những người Pháp hồi hương từ Algérie sau năm 1962. Có gì "phân biệt" trong chánh sách đồi xử của các Chánh phủ ở Paris?

Qua những năm dài sống chung ở trại, một nếp sống cộng đồng bắt nguồn từ những truyền thống văn hóa Việt nam thành hình và lớn mạnh tại Trại Sainte-Livrade. Bà con trồng rau cải Việt nam như rau thơm, rau muống, ớt, hành ngò,...Có vật liệu, gia vị, Bà con làm những món ăn dân tộc cho gia đình, mời bà con láng giềng. Tiếp theo, một cửa hàng mở cửa ngay tại phòng khách của căn nhà bày bán các thứ thực phẩm tươi và bánh trái, xôi, bắp, khoai luộc,... Rau quả do bà con địa phương cung cấp. Cửa hàng còn bán thêm vài món vào cuối tuần như búng riu, búng thang, phở,...Nhu cầu sanh hoạt tinh thần không thể thiếu vắng. Ban Quản trị trại cung cấp hai đơn vị gia cư cho cư dân trại lập nhà thờ và chùa. Sanh hoạt tôn giáo hoạt động. Hai nơi này, ngày nay vẫn còn và được giử gìn cẩn thận.

Bà con ở đây, không có ai muốn trở về Hà nội trong những ngày cuối đời mà muốn yên nghỉ ở đây vì ở đây là Hà nội, là quê hương thật sự của họ. Bà con đã gói ghém mang theo trọn vẹn lúc ra đi. Chỉ bỏ lại ở bên kia bờ đại dương vùng đất hoang dại mà thôi.

Lễ Tết Hà nội tháng Tám

Năm nay, từ hôm 14 tới 17 tháng 8 / 2013, Lễ Hội Tết thường niên của "Làng Việt nam Sainte-Livrade được" Hội Cư dân và Bạn của CAFI "(ARAC = Association des Résidents et Amis de CAFI) tổ chức thật long trọng. Sau nhiều ngày Ban Tổ chức phải làm việc cất lực, Lễ Hội diển ra với nhiều tiết mục hấp dẩn, qui tụ cả ngàn người, vừa bà con cư dân và gia đình, vừa dân chúng địa phương, tham dự suốt cuộc lễ.

Với bà con, đây quả thật là lễ Tết tuy không tổ chức được vào những ngày đầu năm. Chỉ Tết trong ý nghĩa. Ở Pháp, tháng 8, người đi làm việc, trẻ con đi học, đều đưọc nghỉ hè. Lễ Hội tổ chức vào dịp này dễ qui tụ đông người và thời tiết cũng thích hợp. Đây là dịp bà con đi làm xa tụ về nghỉ ngơi với ông bà cha mẹ. Cũng nhơn dịp này, những người của thế hệ thứ II, thứ III gặp nhau, quen biết nhau, kết tình thân người làng kẻ nước với nhau. Họ sống lại tình cảm họ hàng xa gần, thể hiện nét văn hóa xã thôn Việt nam.

Ông Patrick Fernand, Chủ tịch Hội ARAC, nhắc lại Lễ Hội Tết bắt đầu mở rộng trong 3 ngày liên tiếp từ năm 2006, năm kỷ niệm 50 năm những người Pháp Đông dương tới và định cư ở Sainte-Livrade. Lễ Hội đón tiếp mọi người. Ở đây, mọi người đều cảm thấy vui vẻ, nói chuyện với nhau, cười giởn với nhau. Năm nay, còn là dịp để mọi người nhìn thấy Trại CAFI đổi mới, với những dãy nhà kiến trúc mới, đầy đủ tiện nghi. Tuy nhiên, chánh quyền vẫn đáp ứng nguyện vọng của bà con cư dân giử lại trong nguyên trạng 6 căn nhà để dùng làm chứng tích của thời "hồi hương" năm 1956 do chánh phủ Pháp tổ chức. Đồng thời, một vài căn sẽ dùng làm Bảo tàng viện lưu trử tài liệu về cuộc "hồi hương" này, với đầy đủ ý nghĩa của nó, đau khổ, nước mắt, nhục nhả...của lớp phụ huynh trong 1600 người về với nhà nước bảo hộ ở đây. Tường vôi, ngói đỏ là màu sắc của những dãy nhà mới gợi nhớ lại ở những người lớn tuổi, năm nay còn lại lối 20 người trên dưới 90 tuổi, những ngôi nhà thuộc địa ngày xưa ở Hà nội mà sau đó, nhà nước cộng sản trưng dụng cho nhơn viên đảng và chánh phủ ở. Ông Võ Nguyên Giáp hiện đang chờ thở hơi cuối cùng cũng tại một trong những căn nhà này.

Những khu nhà mới và đường phố ở đây mang tên Việt nam để nhắc lại quê hương làm ấm lòng chút nào cho những người rời bỏ vỉnh viển sinh quán. Như Tonkin, Delta,...

Gian hàng ăn là cả thế giới mùi vị để mọi người thưởng thức suốt 3 ngày Lễ Hội. Vừa xem múa lân, pháo bông, diển kịch, võ thuật, nghe ca nhạc và khiêu vũ,...

Cả ngàn người đang vui chơi Lễ Hội, bổng vào lúc gần nửa đêm ngày khai mạc, có 4 người, chắc là dân thành phố Sainte-Livrade nhưng không phải dân trong Trại CAFI, xuất hiện, say rượu, với gậy gộc, với cả chai rượu cầm theo. Một người trong nhóm xin một người tham dự lễ, lối sáu mươi tuổi, một điếu thuốc. Người này từ chối. Thế là cuộc ấu đả xảy ra gây thương tích cho 6 người. Riêng người từ chối thuốc bị thương nặng phải đưa đi qua Bordeaux cứu cấp. Báo tin, san-đầm tới can thiệp ngay.

Ban tổ chức tuyên bố năm tới sẽ đặc biệt quan tâm tới vấn đề an ninh hơn vi chuyện này mới xảy ra lần đầu từ khi có Lễ Hội này.

Ba Tàu tới Sainte-Livrade

Cuộc vui bị phá rối bởi một người say rượu và ít nhiều bệnh tâm thần không quan trọng bằng "Ba Tàu" âm thầm xâm nhập vùng này bằng cách ẩn mình trong kiện hàng hóa do một nông dân vùng này đặt mua những cái ấm trà bằng gốm. Đúng vậy. Nhóm Ba Tàu, trước tiên tới vùng Lot-et-Garonne, sau đó rải mỏng tới gần khắp Âu châu và tiến lên tận miền Bắc Âu nữa. Dân chúng trong giới nông nghiệp lo sợ cuốn cuồn vì thứ này không có loại vũ khí gì có thể tiêu diệt được. Chỉ chờ thiên tai mà thôi. Tức chờ Ông Trời động lòng ngó xuống và ra tay mà thôi.

Đúng là "Khi anh Ba Tàu, ngồi dậy dụi mắt, nhẳm xà là thiên hạ bắt đầu chao đảo".

Ba Tàu tới vùng Lot không phải là những anh Ba Tàu thiệt, mà là những con Ong Bầu đi lậu từ xứ Tàu theo đường hàng hải tới đây không giấy tờ gì cả.

Những con vật này không thuộc giống vật ở Âu châu. Có người nói chúng chích 3 phát vào một ông Tây to lớn, người đầy rượu đi nữa, chỉ vài phút sau là ngã lăn ra tắt thở. Nhưng giới khoa học thì bảo phải cã trăm mủi mới gây tử vong cho người được.

Loại Ong Bầu này rất mê tìm ong mật tấn công. Nhiều nhà nuôi ong ở vùng này bị mất tới 70% bày ong của mình. Có không ít người đã phải di dời tới những vùng khác lánh nạn.

Thuốc sâu rầy không làm gì được với loài ong Ba Tàu ác ôn gốc Quảng đông này.

Báo chi Pháp trong gần đây loan tin và phân tích để tìm hiểu "Với cách nào Ba Tàu xâm nhập vào nước Pháp hiện nay". Ba Tàu mua những ngôi nhà lớn ở khắp nơi, từ Paris tới các tỉnh thành lớn, với giá từ 4 triệu euros trở lên. Họ liên tục đầu tư vào nhiều ngành nghề, nhứt là nghề trồng nho và làm rượu. Khi gặp khó khăn trong bước tiến, người Ba Tàu bèn dở cẩm nang đối ngoại ra đọc "Chỉ khi nào túi áo của người ta trút xuông đất thì ta mới hết đường tiến thủ".

Đảng cộng sản Hà nội học rất kỷ nguyên lý này và đang áp dụng ngày càng thành công trên khắp đất nước Việt nam.

Nguyễn thị Cỏ May

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.