Hôm nay,  

Về Quê Thăm Mẹ

03/09/201300:00:00(Xem: 7596)
(Lời giới thiệu: Năm 1988, ông bà Jim & Jan Stevens người Mỹ nhận nuôi một cậu con trai 4 tháng tuổi qua dịch vụ con nuôi quốc tế Holt Childrens Services. Em bé Lee Seung Yub, người Đại Hàn, bố mẹ nuôi đặt tên là Matt – Matt Stevens. Năm nay, 25 tuổi Matt tham dự một cuộc hành trình về thăm quê mẹ do công ty Holt tổ chức. Trong số 17 người tham dự, có người chỉ muốn đi du lịch, có người muốn tìm hiểu thêm văn hóa của quê hương gốc, chỉ có 6 người – trong đó có Matt - muốn trở về quê để thăm bố mẹ đẻ.

Câu chuyện “Về quê thăm Mẹ” do Matt Stevens viết và đăng trên tờ báo Los Angeles Times ngày 30/8/2013 dưới nhan đề: “An adopted son returns” -- Trần Bình Nam phóng dịch.)

Tôi bước theo cô nhân viên thông dịch của công ty Holt. Cô gõ nhẹ hai tiếng vào chiếc cửa gỗ khép hờ. Một người phụ nữ Nam Hàn trung niên, hơi gầy, khuôn mặt không được đầy đặn, tóc vén ra sau bằng một chiếc kẹp hình con bướm hiện ra sau cánh cửa chưa mở hẳn.

Với giọng thật trầm, pha lẫn rụt rè tôi nói “Annyeonghaseyo” lời chào buổi sáng bằng tiếng Đại Hàn. Tôi cảm thấy âm thanh của ngôn ngữ nghe rất lạ tai, mặc dù tôi đã học phát âm nhiều lần cho nhuần nhuyễn!

“Annyeonghasey …” Người phụ nữ chào đáp nhưng phát chưa hết âm đã nghẹn ngào nất lên. Mẹ tôi quàng hai tay ôm tôi vào lòng, nói trong nước mắt, “Mẹ cảm thấy xót xa và thành thật xin lỗi”, cô nhân viên của công ty dịch lại cho tôi.

Ngồi nghe Mẹ tôi nói về sự dằn vặt và nỗi khổ tâm của bà trong 25 năm qua, từ ngày giao tôi cho dịch vụ con nuôi, có lúc tôi không cầm được nước mắt và cùng khóc với bà.

“Mẹ không một phút quên con,” Bà nói, “Mẹ nhớ con từng phút từng giây.”

Gần suốt thời gian 3 giờ rưỡi đồng hồ nói chuyện với Mẹ tôi không khóc, nhưng những phút đầu tiên tôi đã khóc vì cảm được nỗi đau tận cùng của bà, và cũng khóc vì vui biết sự trở về của tôi đang làm bà vơi nỗi khổ tâm.

Trong đơn xin tham gia chương trình trở về quê Mẹ có 5 lựa chọn. Tôi đánh dấu sự lựa chọn cuối cùng: “Thăm bố mẹ đẻ nếu có thể được”. Ghi vậy thôi, nhưng tôi không quyết tìm cho được bố mẹ đẻ để thăm. Bố mẹ nuôi tôi rất tế nhị. Khi tôi lớn lên bắt đầu hiểu biết chưa có lần nào bố mẹ nuôi tôi nói xa gần về gốc gác của tôi. Tôi được nuôi ăn học đến nơi đến chốn, có việc làm ổn định, sống trong không khí gia đình yêu thương và đùm bọc, và tôi không thiếu bạn bè quý mến. Tôi biết tôi là một người may mắn.

Bố mẹ nuôi tôi ở Los Angeles không xa khu phố Đại Hàn – Koreatown. Vào đại học tôi ghi học một lớp nghiên cứu về người Mỹ gốc Á châu và tham gia Hội những nhà báo Mỹ gốc Á, tôi cảm thấy có nhu cầu tìm biết thêm về quê hương của Mẹ đẻ, nơi tôi đã sống 4 tháng đầu của cuộc đời.

Công ty làm dịch vụ con nuôi của tôi hằng năm tổ chức một chuyến đi thăm Nam Hàn gọi là “Về Nguồn” - Happy Trail in Korea. Tôi ghi danh. Tháng 7/2013 tôi cùng 16 thanh thiếu nữ khác gốc Nam Hàn tuổi từ 19 đến 29 con nuôi trong nhiều gia đình tại nhiều nước trên thế giới lên đường đi Seoul. Hầu hết, trong đó có tôi, đi Nam Hàn lần đầu. Sau 12 ngày du hành, chúng tôi trở thành thân thiết nhau. Chúng tôi cùng dượt taekwondo, cùng hát karooke, và kể cho nhau nghe những mẫu chuyện vui buồn đáng nhớ. Câu chuyện giữa 6 chúng tôi, những người gặp bố mẹ đẻ ghi nhiều ấn tượng nhất.

Hai chị em người Pháp, Camille và Marion, năm 4 và 6 tuổi cha của hai cô mang đến gởi cho văn phòng dịch vụ con nuôi Holt Childrens Services ở Seoul hẹn sẽ trở lại, nhưng bỏ đi luôn. Marion năm nay 30 tuổi, nói chị còn nhớ phảng phất hình thù ngôi nhà nơi cha gởi chị. Hôm nay vừa gặp lại cha, cha cho một vài tấm hình hồi còn thơ ấu. Marion nói nhìn hình, chị không hình dung được đó là mình. Camille thì nói cái đầu của chị hồi nhỏ sao tròn như quả bóng đá và chị cố dấu tấm hình đi một cách vụng về. Camille miêu tả buổi gặp cha đẻ như “bơi … bơi trong dòng nước ngược”.

Hôm đó cũng là ngày tôi gặp Mẹ đẻ tôi. Khi trở về người bạn gái thân thiết nhất của tôi trong đoàn choàng tay ôm lấy tôi và hỏi một cách lo lắng “Anh OK chứ?”

Sau khi ôm choàng lấy tôi ngoài cửa, Mẹ tôi và tôi vào nhà ngồi đối diện nhau nơi một chiếc bàn nhỏ hình bầu dục. Vách tường lót giấy màu xanh lục, tô điểm bằng những con chim nhỏ bay bay tìm chỗ đậu trên những cành trúc gió đu đưa. Căn phòng trông giống như một nơi giữ trẻ.

Trong khi nói chuyện Mẹ tôi xích lần lại gần tôi. Bà vuốt lên xuống cánh tay tôi như thể xem có phải là “da thịt” không. Bà úp hai bàn tay bà vào bàn tay tôi như không muốn rời ra trong suốt giờ đầu nói chuyện với tôi. Bà nói bà tên là Lee Jung-son. Tôi xưng tên tôi là Matt Stevens. Trong chuyến đi này tôi định nếu gặp được Mẹ tôi sẽ nói lời “cám ơn” bà đã sinh ra tôi mục đích để làm yên lòng một người Mẹ đã bỏ con. Thế thôi, và nghĩ sẽ không còn vướng bận gì.

Tôi đã nhầm. Cuộc gặp gỡ đã có một tác động sâu sắc đến tâm hồn Mẹ tôi và tôi. Cuộc nói chuyện dù qua phiên dịch vì ngôn ngữ bất đồng cho tôi thấy hôm nay là một ngày trọng đại của Mẹ tôi. Sau này Mẹ tôi nói với tôi sau cuộc trở về của tôi, bà hoàn toàn thay đổi. Mỗi ngày bà cảm thấy đời sống bà có ý nghĩa, ngọt ngào và hạnh phúc hơn.

Nhìn vào tấm hình ba bố con Jim, Jan và tôi dưới tấm kiếng lót bàn tôi nói tôi cám ơn Mẹ đã hy sinh và chịu đau khổ “mất con” vì tương lai của tôi. Nghe đến đó Mẹ tôi khóc sướt mướt. Bà thổn thức: “Mẹ không bao giờ tưởng tưởng rằng con sẽ tìm về thăm Mẹ, con còn nhận Mẹ là mẹ đẻ của con.”

Hồ sơ con nuôi của tôi ghi rằng, lúc còn là một thiếu nữ 16 tuổi Mẹ tôi yêu một thanh niên, và có thai với ông ấy. Có thai được 5 tháng ông thú thật với Mẹ tôi ông đã có gia đình. Trong xã hội Á châu, một người con gái trẻ tuổi khó nuôi dưỡng và giáo dục một đứa con ngoại hôn. Nhưng thay vì phá thai, Mẹ tôi đã chịu đựng búa rìu dư luận sinh tôi ra và giao cho một công ty làm dịch vụ con nuôi. Hồ sơ ghi một cách đơn giản, “vì nghịch cảnh” mẹ tôi phải cho tôi. Qua hồ sơ tôi được biết tôi có 3 anh chị em, hai cùng cha, và một cùng mẹ.

Tôi hỏi thăm về cha tôi và các em thì Mẹ tôi tỏ ra đau khổ như ai giở lại cái quá khứ “tội lỗi” của mình. Cô Esther Kim, người thông dịch của công ty Holt nói với tôi: “Tôi đã hỏi bà nhiều lần, nhưng lần nào bà cũng tìm cách trì hoãn” và cô tiếp, “trái lại, Mẹ anh cứ hỏi hoài, anh có bao giờ tỏ ý trách bà không?”

Nam Hàn là một xã hội Khổng giáo, người đàn bà không chồng có con bị xã hội khinh thường. Ít gia đình nuôi con nuôi, ngay cả những cặp vợ chồng không con.

Từ khi chiến tranh Nam Bắc Hàn chấm dứt trong thập niên 1950 đến nay có 160.000 trẻ em Nam Hàn trở thành con nuôi tại nhiều nước trên thế giới, nhiều nhất là Hoa Kỳ. Phong trào nuôi con nuôi Nam Hàn mạnh nhất vào giữa thập niên 1980, vài năm trước khi tôi ra đời. Hiện nay, kinh tế Nam Hàn sung mãn, mỗi năm người Mỹ chỉ nuôi chừng vài trăm con nuôi từ Nam Hàn.

Truyền hình Nam Hàn thường cho chiếu những phóng sự con nuôi ở nước ngoài về thăm bố mẹ đẻ. Mẹ tôi nói với tôi, mỗi lần xem một phóng sự như vậy bà tự hỏi, “có khi nào thằng Yub về thăm mình không?”

Mẹ tôi buồn với quá khứ, trong bao năm qua nhớ tưởng tôi hằng phút hằng giây. Trái lại, tôi như kẻ vô tình. Tôi có một đời sống hạnh phúc với bố mẹ nuôi, sống ổn định trong xã hội, mãi đến giờ này tôi mới nghĩ đến Mẹ.

Hôm nay, ngồi nghe lại cuốn băng ghi cuộc nói chuyện với Mẹ, tôi khóc ngất. Tôi nói tiếng Anh chậm rãi với Mẹ đẻ mình để được phiên dịch cho bà nghe như nói với một đứa trẻ. Giữa những phút im lặng tôi chen vào lời khuyến khích mẹ tôi và nhắc đi nhắc lại tôi không hề oán hận bà.

Mẹ tôi tiễn tôi ra phi trường khi tôi trở về Hoa Kỳ. Bà ghi số điện thoại của tôi. Tôi nói với bà điện thoại qua lại chắc không tiện vì phải sắp xếp người phiên dịch. Bà hỏi tôi có trở lại thăm bà không? Tôi nói tôi sẽ, nhưng không bảo đảm vì đường sá xa xôi và cũng lắm nhiêu khê. Tôi hứa sẽ viết thư thăm bà thường xuyên qua công ty dịch vụ Holt.

Người phụ nữ đã sinh tôi ra đời không muốn rời tôi. Cử chỉ của bà lúc nào cũng như muốn ôm tôi vào lòng, cận kề da thịt tôi. Bà nói dây giày của tôi không chặt và kiếm cớ cúi xuống cột lại dây giày cho tôi.

Khi xuống xe bước vào khách sạn, một cơn mưa chợt đổ xuống Mẹ tôi vội vàng bật chiếc dù che cho tôi, đột ngột kéo tôi vào lòng nói: “Mẹ sẽ không để một giọt nước mưa nào đổ xuống đầu con.”

Trong lobby khi tôi sắp nói lời từ biệt, Mẹ tôi nhìn tôi qua khóe mắt, cầm chặt tay tôi, rươm rướm nước mắt.

Mẹ tôi đặt một cái hôn nồng cháy vào lòng tay tôi, mếu máo: “Con hãy sống sung sướng và giữ gìn sức khỏe. Mẹ thương con lắm.”

Tôi không dám nhìn thẳng vào đôi mắt bà, nói: “Con cũng thương Mẹ vô cùng.”

Trần Bình Nam phóng dịch

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trước hiện trạng kỳ thị, không chỉ bạo hành bằng lời nói, mà còn tấn công hung bạo và bắn giết khiến nhiều người đã thiệt mạng hoặc bị thương tích nặng, các chuyên gia và các nhà hoạt động đã đưa ra một số biện pháp để chống trả vấn nạn này và giúp các thành viên trong cộng đồng tự bảo vệ
Lực lượng “ăn cháo đá bát” rất đông và lan nhanh như bệnh dịch, nhưng chưa bao giờ được công khai cho dân biết để dân bàn, dân kiểm tra. Ngược lại, dân lại là nạn nhân của đám ong nuôi trong tay áo từ bao năm nay. Chúng nằm trong ngành Tuyên giáo, trước đây gọi là Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương. Sau lưng đảng còn có đội ngũ chuyên nghề nói thuê và viết mướn gồm Báo cáo viên và Dư luận viên được trả lương bằng tiền thuế của dân.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
Tôi là anh trưởng trong gia đình, với 9 đứa em cả trai lẫn gái, nên trách nhiệm thật khó khăn, từ nhân cách cho đến cuộc sống. Nhưng may mắn tôi gặp được những người anh ngoài xã hội để noi gương và học hỏi. Một trong số những nhân vật hiếm hoi đó, chính là anh Nguyễn Văn Tánh, người mà tôi đã có cơ hội được tiếp tay hỗ trợ và đồng hành cùng anh trong suốt 20 cuộc Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế Liên Hiệp Quốc tại thành phố New York từ 20 năm qua.
Tôi tha phương cầu thực gần như trọn kiếp (và may mắn lạc bước đến những nơi không thiếu bơ thừa sữa cặn) nên bất ngờ nhìn thấy mảnh đời cùng quẫn thì không khỏi chạnh lòng. Nghe tiếng mời chào khẩn thiết, nhìn những khuôn mặt khẩn cầu của đồng bào mình mà muốn ứa nước mắt.
Các định kiến tai hại đối với các phụ nữ Á Châu trong văn hóa đại chúng của Mỹ đã có từ ít nhất thế kỷ thứ 19. Từ đó, các nhà truyền giáo và binh sĩ Mỹ tại Á Châu đã xem phụ nữ mà họ gặp đó như là ngoại lai và dễ tùng phục. Các định kiến này đã ảnh hưởng luật di trú đầu tiên của Hoa Kỳ dựa vào chủng tộc, Đạo Luật 1875 Page Act, ngăn cản các phụ nữ Trung Quốc vào Hoa Kỳ. Giả thuyết chính thức là rằng, ngoại trừ được chứng minh ngược lại, các phụ nữ TQ tìm cách vào Hoa Kỳ đã thiếu tư cách đạo đức và là những gái mại dâm. Trên thực tế, nhiều người là vợ tìm cách đoàn tụ với những ông chồng là những người đã đến Hoa Kỳ trước đó. Khoảng cùng thời gian đó, các phụ nữ TQ tại San Francisco cũng bị làm dê tế thần bởi các viên chức y tế địa phương là những người sợ rằng họ sẽ lây truyền các bịnh lây lan qua đường tình dục cho các đàn ông da trắng, là những người sau đó sẽ lây lan cho các bà vợ của họ. Vào giữa thế kỷ 20, các căn cứ chiến tranh và quân sự của Hoa Kỳ tại TQ, Nhật, Phi Luật Tân,
Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Xuân Phúc … quả đúng là những kẻ thuộc giới ăn trên ngồi trốc. Họ là những hạt giống đỏ được gieo trồng từ miền Bắc, và đã ươm mầm thành cây. Loại cây này, học giả Phan Khôi gọi một cách lịch sự là cây Cộng Sản. Còn dân gian thì gọi là cây cứt lợn!
Nếu đảng đủ can đảm và ông Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng còn đủ bản lĩnh của một Lãnh đạo gương mẫu trong công tác phòng, chống tham nhũng thì hãy công khai cho dân biết Tổ chức Thanh niên của đảng đã làm được những gì cho dân cho nước trong 90 năm qua. Hay ngót 7 triệu Đoàn viên TNCS chẳng làm được trò trống gì, ngoải vai trò tay sai đã tuyệt đối trung thành với đảng và với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh?
Adam Smith và Karl Marx cùng được gọi chung là kinh tế cổ điển (classical economy) tức là lao động (labour) tạo ra giá trị (value.) Khác ở chổ Smith quan niệm thị trường tự do giúp mọi người hưởng thụ giá trị lao động còn Karl Marx lên án giá trị lao động của công nhân bị tư bản bóc lột. Vào đầu thế kỷ thứ 20 xuất hiện một cách nhìn mới là giá trị (value) do nơi tiện ích (utility) thay vì từ lao động (labour). Thí dụ một người đang khát uống ly nước đầu thì thật ngon, ly thứ nhì vừa vừa còn ly thứ ba đầy bụng nuốt không vô, tức là giá trị của mỗi ly nước giảm khi nhu cầu tiện ích hạ thấp. Quan điểm này gọi là Giá Trị Biên Tế hay Marginal Value.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.