Hôm nay,  

Nhớ Lũy Tre Làng

11/09/201300:00:00(Xem: 15340)
Về vùng Languedoc-Roussillon, du khách khó bỏ qua ngôi làng cổ Aigues-Mortes mà không thăm viếng. Địa danh này nằm giữa thành phố Montpellier và Nỵmes nhưng sâu về phía Nam gần biển. Đây là một vùng kênh rạch chằng chịt làm cho không ít du khách gốc nam kỳ lục tỉnh không khỏi nhớ lại quê hương Bến tre, Vĩnh long, Cần thơ.

Khi vừa tới ngôi làng cổ Aigues-Mortes, du khách sẽ ngạc nhiên trước một bức tường thành cao, kiên cố, xây bằng gạch đá, chạy dài mà chưa có ý niệm là đằng sau bức tường này là một ngôi làng cổ đươc bức tường như vạn lý trường thành bao bọc chung quanh để bảo vệ ngôi làng. Người việt nam đàng ngoài có thể hình dung lại như lủy tre làng của một thời xa xưa ở quê nhà. Ý nghĩ về một lủy tre làng ở Miền Bắc Việt nam, tuy chưa đươc biết qua thực tế, chỉ qua sách vở, mà đã làm cho Cỏ May thật sự xúc động khi Cỏ May bước qua cổng thành để vào bên trong tìm căn nhà số 27, đường Emile Jamais. Xúc động vì có cảm tưởng như mình đang về tới làng quê

Cái nôi vùng ruộng lúa Camargue

Nằm giữa những ao hồ, làng Aigues-Mortes ngày nay vẫn còn giử được khá đậm nét bộ mặt nền văn minh trung cổ. Một vùng u khuất nước ngập, sình lầy, nhưng có nhiều nắng ấm. Những tháp canh vượt lên khỏi đầu tường thành, giữa vùng đầm lầy, đầy bí ẩn, gợi lại một chiều dài lịch sử xây thành, lập xã thôn, xác định bờ cõi đế chế, tổ chức phát động những cuộc thánh chiến... Du khách bước chơn đến vùng này, nhìn bức tường kiên cố còn đứng sừng sửng bao quanh một khu đất rộng lớn, bên trong là ngôi làng đang sanh sống sầm uất, không thể không muồn biết qua vài nét về lịch sử địa phương.

Ngày nay du lịch quả thật là một ngành hoạt động mạnh, cả trong thời kỳ kinh tế đang hồi suy thoái, đem lại cho quốc gia một nguồn thu nhập quan trọng.

Để biết sơ lược về lịch sử làng Aigues-Mortes và bờ tường chạy dài bao quanh ngôi làng trước mắt, du khách chỉ cần bước vào Văn phòng Du lịch của Thị xã thường tọa lạc ngay Trung tâm thành phố. Nơi đây vừa có người hướng dẩn, vừa có tài liệu in sẳn và phát miển phí cho du khách.

Theo tài liệu của Văn phòng Du lịch phát hành, vào thế kỷ thứ XIII, vua Saint Louis chưa làm chủ được một khoảnh đất đai nào nằm dọc theo bờ Địa Trung hải. Vùng nước ngập, sông ngòi chằng chịt Aigues-Mortes đã thu hút mãnh liệt sự chú ý của vua Saint Louis. Lập tức, ông khám phá ra ngay cái ưu thế chiến lược của Aigues-Mortes nằm giữa những hải cảng khác đang kiểm soát và khai thác con đường giao lưu huyết mạch từ Ý dẩn dài qua Tây-ban-nha chạy ngang qua đây. Thê là ông tìm cách thương lượng với Tu viện Psalmody có từ thế kỷ thứ V, chủ nhơn vùng lảnh địa này, để mua lại Aigues-Mortes. Cái may mắn của ông là tu viện đang hồi gặp khó khăn về tài chánh do chương trình mở rộng tu viện bị thất bại. Cuộc thương thảo chưa kết thúc, Saint Louis đã vội cho khởi công xây ngay Tháp Constance để xác định sự hiện diện và uy quyền của ông tại Aigues-Mortes và sẽ trở thành một hải cảng vừa thương mại vừa quân sự.

Nơi đây, sau khi xuất hiện tu viện Psalmody, vẫn chưa có dân chúng sanh sống đông đảo. Khí hậu độc, nhiều mủi mòng và bệnh truyền nhiểm. Vậy mà tu viện nhiều lần bị hồi giáo tấn công, tu sĩ bỏ chạy tảng lạc hết cả. Đến thế kỷ XI, tu sĩ mới lần lượt kéo nhau về tu viện. Lợi tức ở đây chỉ đánh cá và làm muối ăn. Về muối, đặc biệt ở đây có thứ muối đỏ hồng mà nơi khác không có. Nhưng ngày nay, muối ở đây không còn đắc dụng nữa, ngoài phần lớn dùng để rải đường vào mùa đông làm cho tuyết không đóng băng nguy hiểm cho xe cộ đi lại.

Tu viện bán đât dài dài để lấy tiền trả nợ nhưng nợ vẫn không thanh toán hết được. Tu vìện lâm vào cảnh phá sản, điều kiện thuận lợi cho Saint Louis tậu đất, xây thành, lập cơ ngơi.

Aigues-Mortes nằm giữa vùng nước ngập đem lại cho nhà vua nhiều thuận lợi, vừa bảo vệ thành chống lại sự xâm nhập và tấn công của địch, vừa giúp khai thác thủy lưu, mở mang giao dịch với bên ngoài. Aigues-Mortes trở thành một hải cảng trên bờ Địa trung hải mà sau lưng là thành phố, làng mạc.

Tuy thành phố, làng mạc đã ra đời, nhưng bệnh hoạn còn hoành hành nên dân cư vẫn còn thưa thớt. Nhà vua Saint Louis bèn ban hành Chỉ dụ ưu đải cho ai muốn tới đây lập nghiệp như độc quyền buôn bán, những quyền lợi về chánh trị, miển nhiều sắc thuế,...Dân chúng hưởng ứng những ưu đải của nhà vua bắt đầu kéo tới định cư, lập nghiệp. Họ tới từ nhiều vùng khác và cả từ nước ngoài. Nhiều nhứt là dân Ý.

Di chuyển vào thời đó chủ yêu bằng ghe thuyền. Thuyền buồm lớn có phòng ốc khá tiện nghi dành cho vua chúa và hoàng gia. Hành khách khá giả, có tiền, mang theo mỗi người một cái rương lớn, vừa dùng để hành lý, vừa chổ ngủ đồng thời dùng làm quan tài khi chết. Những lúc thời tiết tốt, du khách được phép lên trên boong tàu hứng gió mát, nắng ấm, thở không khí trong lành. Nhưng không phải họ được quyền đi lúc nào cũng được, mà phải thay phiên nhau. Và thời gian được lên boong không phải nhiều. Thì giờ còn lại, mọi người bị giam trong phòng tàu đóng cửa kín mít. Khỏi phải nói, ở đây mùi người ta lâu ngày không tắm gội, mùi quần áo không giặt, mùi dơ đủ thứ cùa hầm tàu, trộn lẩn và cùng xông lên. Nhiều du khách, thủy thủ, bệnh chết. Xác chưa kịp thủy táng, đàn chuột đói từ lâu ngày ào tới chia phần. Tiếng đọc kinh phát lên giữa tiếng giành ăn của đàn chuột. Tới phiên những người sống sót chia nhau những gì còn lại của người chết. Qui luật bất thhành văn nhưng giải quyết khá ôn hòa giữa những người chưa chết.
lang_co_phap_quoc__resized
Làng cổ Pháp quốc Aigues-Mortes.

Cuộc hành trình đường thủy dài nhứt thường phải mất ba tháng.

Vua Saint Louis xây dựng xong hải cảng bắt đầu lấy thuế để xây dựng thành phố, thôn xóm. Nhưng chương trình khai hoang lập ấp của ông chưa kết thúc thì ông mất. Vua Philippe III le Hardi, con trai của ông, lên nối ngôi và tiếp tục sự nghiệp của vua cha.


Vua Saint Louis chết ở Tunis trong chuyến Thập tự giá thứ VII. Năm 1240, Giáo hoàng Innocent V triệu tập về thành phố Lyon ở Pháp tất cả Giám mục để tổ chức những cuộc thánh chiến nhằm thu hồi thánh địa Jérusalem bị mất lại vào tay Thổ (Turcs). Nhưng các Đức Giám mục mạnh ai nấy tìm đường đào thoát. Sau cùng, vua Saint Louis đứng ra nhận lảnh chỉ huy chiến dịch thánh chiến VII và ông không trở lại. Cuộc thánh chiến này vì do ông chỉ huy nên được xem là của Pháp.

Chiến tranh với lảnh chúa Aragon làm tiêu hao quá nhiều tiền bạc nên công việc xây dựng vì đó phải nhiều lần đình chỉ. Mặt khác, duyên hải Địa trung hải bị hải quân của nhà cầm quyền Catalan (Tây-ban-nha) kiểm soát, tàu bè vì đó không cập bến được, nên nhà vua Philippe III le Hardi không thu được thuế.

Năm 1285, vua Philippe III le Hardi mất. Vua Philippe IV le Bel lên nối ngôi quốc vương Pháp mới hoàn thành chương trình xây dựng hai lần bị dở dang.

Tháp Constance

Tháp Constance ngày nay hãy còn. Đó là một tháp lớn nhứt nhìn ra sông, kiểm soát mọi tàu bè di chuyển ngang qua Aigues-Mortes. Cho tới sau thế kỷ XIII, Aigues-Mortes là một thành phố sầm uất, vào thời điểm cực thịnh, có hơn 12 000 dân. Từ sau giữa thế kỷ XIV, đât bồi làm cho biển ngày càng cách xa, các thủy lộ bị cát lấp dần làm cho cảng Aigues-Mortes bị tê liêt. Nhà cầm quyền quân chủ có đưa ra kế hoặch súc cát, khai lại thủy lộ nhưng phải chịu bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên. Từ đó, Aigues-Mortes không bao giờ đứng lên được nữa. Ngày nay, dân số Aigues-Mortes là 8700 người với gần 4000 đơn vị gia cư vừa chánh (dân cư cố định địa phương), vừa phụ (tới ở ngắn hạn nghỉ ngơi, nhứt là vào mùa hè). Không kể thêm 120 ngôi nhà bỏ trống do chủ bỏ đi tới nơi khác tìm công ăn việc làm. Hằng năm, có 1 200 000 du khách tới thăm viếng hoặc ở nghỉ ngơi.

Aigues-Mortes có nghĩa là "Nước Chết", tức nước ứ đọng, không lưu thông mạnh.

Aigues-Mortes được bao bọc chung quanh bởi một bức tường cao dài 1634 m, nhiều chổ, cao tới gần 10 m, với 20 tháp canh cao vượt lên chiều cao của tường thành. Cứ từ 6 tói 9 m, tường có những "ổ châu mai" để xạ thủ nhìn ra, khi địch tới, nhắm bắn tên. Ở chơn mỗi "ổ châu mai", có lổ trống lớn, từ bên trong, có thể nhìn ra ngoài thấy được ở tầm gần chơn tường, để nhắm bắn địch khi tiến tới gần hoặc muốn leo lên tường.

Dọc theo tường, ở vị trí thắp hơn đầu tường, là lối đi nối giáp vòng tường thành. Ngày nay, du khách có thể đi dạo chơi trên lối đi này rất thoải mái, và lên cả Tháp Constance, để ngắm cảnh chung quanh Aigues-Mortes với tầm nhìn khá xa. Quả thật Aigues-Mortes nằm giửa vùng nước mênh mong, với sông ngòi chằng chịt. Nhưng du khách đừng quên, ở xứ Pháp, không có món gì được miển phí hay biếu không làm duyên. Gìá đi dạo trên tường thành là 7 euros cho người lớn và 4 euros cho trẻ em.

Ngày nay, du khách đi trên tường thành, vào xem Tháp Constance, đều lấy làm thích thú và thầm cảm phục người xưa đã để lại cho hậu thế một tác phẩm tuyệt tác. Theo vài sử gia, vào đầu thế kỷ XV, Tháp mang tên Constance là để tưởng niệm bà dì của vua Saint Louis, bà lấy vua Raymond VI của Toulouse. Nhưng nhiều người khác lại cho rằng tên Constance để chỉ sự " bất biến ", sự " bền vững" của kiến trúc mà thôi. Mà thật, Aigues-Mortes là cổ thành quân sự của Pháp thời trung cổ còn lại, không bị hư hại nhiều và được chánh phủ Pháp bảo quản rất kỷ vì nó được xếp vào danh sách di sản văn hóa quốc gia. Nhưng có mấy ai cảm thấy rùng mình khi bước vào Tháp Constance ? Nơi đây, năm 1685, sau khi Chỉ dụ nhà vua bị hủy bỏ (Edit de Nantes), trở thành nhà tù rùng rợn nhốt những người Tin lành không có ngày ra về. Edit de Nantes phạt đàn ông tin lành chung thân khổ sai, đàn bà bị tước đoạt thân thể và của cải. Chỉ có cách thoát ra khỏi xứ Pháp mới có thể hành đạo được mà thôi.

Trong những người tù tin lành ở Tháp Constance, có Bà Marìe Durand là người tù bất khuất. Một tấm gương sáng cho người tin lành. Bà bị tù 38 năm, từ năm 15 tuổi. Anh của bà bị treo cổ. Cha của bà bị tù chung thân. Bà giữ vững đức tin, biến thành động lực tạo nên phong trào tin lành chống đối rộng và mạnh. Năm 1768, nhơn một cuộc thanh tra, Hoàng tử Beauvaux (Ngày nay Bộ Nội vụ Pháp đặt tại Công trường Beauvaux) của xứ Languedoc ra lệnh mở phòng biệt giam cho ông khám xét. Thấy thân thể của Bà Marie Durand quá tiều tụy, nhưng tinh thần vẫn tráng kiện, ông bèn ra lệnh phóng thích bà cùng với vài nữ tù nhơn khác.

Và cũng ở vùng Camargue này, vào những năm cuối thập niên 20 và đầu thập niên 30, có không ít người Việt nam trong số 20 000 người bị nhà cầm quyền thực dân pháp cưởng bách qua Pháp làm công không lương, như làm rẩy, làm ruộng trồng lúa, giống lúa của Việt nam đem qua. Sau Thế chiến II, có nhiều gia đình không về Việt nam. Họ chọn ở lại, lập gia đình và sanh sống cho tới ngày nay.

Cuộc đời của họ không khác những người nô lệ, chỉ đươc di chuyển tại chổ, khác hơn ở tù. Họ làm việc và bị đối xử không khác lớp con cháu của họ sau này bị nhà cầm quyền cộng sản hà nội bắt đi cải tạo tập trung. Bị đau khổ, nhục nhả không thể tả xiết.

Mỗi khi đi về Miền này, Cỏ May vẫn cảm thấy đâu đây in dấu bóng dáng của những người đến từ quê hương Miền Trung, Miền Bắc của Cỏ May mà ngày nay chỉ còn lại hơn mươi người đã ngoài 90 tuổi. Vẫn sanh sống ở đây. Trong đó có Cụ Nguyễn văn Thanh (hay Thành), con quan Tuần phủ ở Nghệ An, tình nguyện đi làm Giám thị-Thông ngôn (Surveillant-Interprète), ngày nay còn sống và vừa cho xuất bản quyển hồi ký với cái tựa hàm chứa trọn vẹn cả cuộc đời của ông "Saigon-Marseille: aller simple" (Sài gòn-Marseille: đi không trở về).

Nguyễn thị Cỏ May

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.