Hôm nay,  

Du Mục Trên Đất Ấn

15/10/201300:00:00(Xem: 5684)
Chaungtra! Ngôi làng nhỏ thuộc bang Himachal Pradesh cực bắc Ấn Độ, một chỗ định cư của người tỵ nạn Tây Tạng.

Tôi không biết làng này. Chưa nghĩ có ngày sẽ ở lại vài hôm để không làm gì cả, ngồi đồng, nhìn núi, mây, tường vôi, đồng cỏ.

Từ khu ổ chuột Majnu Ka Tilla dành cho người tỵ nạn Tây Tạng ở thủ đô Delhi, tôi bắt xe đò đi Dharamsala cũng thuộc bang Himachal Pradesh. Lý thuyết là 12 tiếng, nhưng chạy gần 15 tiếng mới tới vùng Upper Dharamsala, quận lỵ cao gần 2000 mét dành cho đức Dalai Lama và con dân mất nước của ngài. Xe chạy trong đêm không thấy gì ngoài những cú lắc quành trên đèo, và bóng xe in trong ánh trăng trắng nhạt thủi thủi bò trên đường núi ngoằn ngoèo chật hẹp.

Rồi tôi lại được chở ngược xuống những đoạn đèo hun hút. Dưới sâu, dòng suối miên man bẻ lượn vỗ trắng xóa trên những tảng đá trắng. Thêm ba tiếng nữa trong sáng muộn nhưng sương vẫn vu vơ đây trời và giăng ngập thung lũng, đến một nơi tên là Chaungtra.

Anh họa sĩ Tây Tạng Urgyen đứng đón ở phòng triển lãm của anh, lẫn trong những bức thangka và các nghệ nhân Tây Tạng đang cặm cụi thêu các đường nét trên lụa bằng lông ngựa. Urgyen bảo tháng 8 trời mưa ít người đến, chúng ta mặc sức đi khám phá đời sống tỵ nạn, những tu viện bề thế (và nguy nga), và một căn phòng rất đặc biệt dành cho tôi muốn ở bao lâu cũng được.

Urgyen sinh trưởng ở miền đông bắc Tây Tạng. Anh xuất gia được năm năm nhưng rồi phải cởi chiếc áo hoại sắc vì chế độ. Anh tiễn mẹ lên một ngọn núi rất dốc để bà tịnh tu trên đó, người cha đã mất, chẳng còn gì. Rồi anh vượt Hi Mã Lạp Sơn đến Ấn năm 1999. Được định cư ở Dharamlasa, anh học nghệ thuật thangka trong năm năm, mở phòng tranh và dần nổi tiếng. Một số bức tranh của Urgyen được đức Đạt Lai Lạt Ma ký tên ngài. Trong một lần đi Nepal triển lãm, anh gặp Star, cô y tá người Úc qua làm thiện nguyện ở các trại tỵ nạn Tây Tạng. Họ cùng về Chaungtra làm đám cưới trong một ngôi chùa nhỏ.

Bây giờ, Star ở luôn Chuangtra, bỏ nghề y tá, học đan thiêu và mỹ thuật Nepal để làm những món quà lưu niệm kiếm sống.

Không hiểu bằng cách nào Star đã hòa nhập và hạnh phúc trong một ngôi làng hẻo lánh có vài trăm người, ngoài bìa làng là cộng đồng Ấn chẳng mấy thân thiện. Xung quanh là núi, mây, chùa, những con chó chạy rong, những đàn bò đen nghênh ngang, những đàn ngựa thồ ốm o vác nặng run rẩy bước trên những con đường rất dốc.

Và những người Tây Tạng trầm tư buồn bã, trong đó có người chồng nghệ sĩ Urgyen.

Ngôi nhà của Urgyen mới cất, có một căn phòng dành riêng để thờ Phật Di Lặc. Một bàn thờ tinh nghiêm giữa phòng có chân dung của một vị tulku (tái sinh), xung quanh treo nhiều bức thangka. Hai cửa sổ che rèm vàng óng ả. Một cái giường đơn trải thảm xanh thêu nổi, xung quanh giường viền lụa vàng. Mùi nhang trầm thấm thía cả căn phòng. Anh bảo nếu tôi không sợ thì ở trong phòng này buổi tối, ban ngày sẽ dắt lên ở trong một tu viện vắng gần chân núi, Star sẽ bới xách thức ăn vào ban trưa.

Căn phòng thiêng liêng nhất nhà dành cho người lạ vừa gặp mặt. Các ngôi chùa lớn ở Tây Tạng (không biết bây giờ còn không) thường dành một căn phòng riêng để thờ Phật Di Lặc. Có lẽ Urgyen bắt chước lệ này, nhưng lòng hiếu khách khiến anh phá lệ.

Xế chiều, Urgyen dắt tôi đi viếng đại tu viện Dzongsar do đại sư Khenpo Kunga Wangchuk, vị tulku mà anh đang thờ, thành lập. Tu viện đang có 500 tăng sinh Tây Tạng theo học. Ba dãy nhà hai tầng che ba hướng. Chính điện thờ Phật Thích Ca nguy nga, đôi mắt dài xanh thẳm nhũng trầm tư nhưng miệng mỉm cười. Bao quanh là núi mây, không gian trắng đồng cỏ xanh, và tiếng bánh xe cầu nguyện rào rạt kêu trong chiều tà.

Rồi bỗng nhiên, lướt lên tất cả, tràn trên âm vọng thiên nhiên và trong ánh nắng rơi sót giữa những làn sương trắng lưng lửng, giọng ca lanh lảnh của một phụ nữ Tây Tạng lan tỏa trên đồng cỏ núi đồi. Tiếng hát người du mục, thoát lên từ cổ, âm cao và sắc bởi luồng hơi từ lồng ngực bị bóp lại, lan ra như những mảng chất lỏng nối nhau tràn dần trên đầu cỏ lung lay.

Âm thanh lanh lảnh, chảy lan ra, như ảo ảnh loang loáng trên đồng cỏ.

Như chất mật đắng được thắp long lanh bằng ánh sáng hắt lên từ núi tuyết.

Bám vào đồng cỏ nhưng không dừng lại, tiếp nối thành những tròn tỏa rộng, để gió mang đến tận chân núi chân trời.

Không gian rung động tiếng ca, hư không bị xé rách từ âm thanh sắc bén và hùng hậu thoát từ họng người bé nhỏ.

Uygyen bảo đó là tiếng hát của những du mục phải định cư. Ở quê, họ sống trong các túp lều, mùa xuân lên ngựa lùa ngựa và bò yak về hướng núi, mùa đồng rong ngựa về miền thấp. Một cái ấm trà, vài cái bát, tấm bạt cuộn bên hông, đi theo thời tiết sống theo mùa màng. Không đâu là nhà nên đâu cũng là nhà. Chính quyền Trung Quốc xây những cụm ghetto bắt hàng trăm ngàn người du mục định cư. Người du mục có căn nhà họ không bao giờ cần trong kiếp sống này. Họ mất trời, mất đồng cỏ, mất quyền lang thang, lang bạt, giang hồ. Mất tiếng ca, mất lối sống khiêm tốn và hùng tráng, mất lối sống biết hổ thẹn với lương tâm. Người du mục mất tất cả khi mất quyền du mục.


Uygyen bảo anh thích bài hát này. Đó là tiếng kêu ‘du mục, như bóng hình ảo ảnh cỡi trên cát sa mạc, như ánh mắt nổi trôi theo gió ngàn sa mạc, du mục, không ai biết ngươi từ đâu tới, du mục, không ai biết người sẽ về đâu, du mục, chỉ có ngươi ôm kín nỗi lòng.’

Trong mỗi người Tây Tạng như đều có dòng máu lang thang. Urgyen đi liên tục. Đi triển lãm, đi tìm cảm hứng, đi tịnh tu nơi xa vắng. Cô vợ Star xinh đẹp đầy sức sống than phiền trước mặt tôi: ‘Ảnh không bao giờ đi chung với em!’ Urgyen nói có chứ, tại em quên, minh mới đi châu Âu, đi Nepal. Star mỉm cười: ‘Anh lại sắp đi Đài Loan ba tuần.’ Urgyen bảo thì anh đã nhờ chị (dâu) nấu nướng cho em rồi, có sao đâu. Star vừa đan vừa nói chuyện, rồi bỏ que đan, bồng con cho bú, lại đan, móc. Trông cô như một phụ nữ Á đông hiền thục, bỏ nước Úc tiện nghi theo người chồng nghệ sĩ tóc dài chấm vai lúc nào cũng nghĩ chuyện đi. Trong một ngôi làng rất bé nhỏ, giữa một cộng đồng có lối sống khác biệt, trong một đất nước bất an mọi thứ.

Tôi nói riêng với Urgyen mầy đi hoài như thế vợ mầy làm sao. Anh tròn đôi mắt xếch Tây Tạng, nét mặt anh lúc nào cũng thanh thản dù ngạc nhiên: ‘Sao là sao?’ Thì buồn, gia đình không vui chứ sao. Urgyen bảo không có đâu, Star lúc nào cũng vui, cô nói không nhớ gì nước Úc cả, không nhớ cha mẹ anh em, chỉ thỉnh thoảng nói thèm cà phê latte và thèm nói tiếng Anh. Tôi bảo: ‘Đừng bao giờ tin đàn bà.’ Urgyen nói sao được, tao mới về Tây Tạng thăm mẹ, phải leo lên một ngọn núi rất dốc để thăm bà mẹ bảy mươi chín tuổi đang tịnh tu trên đó, bà bảo con đừng về nữa, miễn con yên ổn là được rồi.

Anh nói: ‘Phải tin mẹ chứ.’ Không tin mẹ thì tin ai, nhưng trong đời sống này đừng tin người đàn bà nào cả trừ mẹ mình. Urgyen nhìn tôi đăm đăm. Nét mặt anh trầm lắng một cách lạ thường.

‘Rồi khi mất mẹ?’

‘Làm người du mục.’

Urgyen chạy băng qua đồng cỏ. Mái tóc dài đen mượt của anh tung chấp chới. Tiếng hát vẫn loang loáng vang xa, cao ngất, khóc ngất, mây ngất trời chùng xuống dạt ra cho bàn chân du mục chạy về đâu, tiếng hát quyện về đâu, chân trời chết tận đâu.

Urgyen gửi tôi vào một tu viện nhỏ. Một căn phòng lạnh chỉ có tường trắng. Buổi trưa hai vợ chồng mang thức ăn lên. Buổi tối họ nhờ người anh lái xe lên đón về nhà. Cả nhà đều ăn chay kể cả hai đứa nhỏ. Mỗi người mỗi đĩa, lặng lẽ ăn trong mùi hương trầm quyện đặc. Khuya khoắc, Urgyen ngồi tụng kinh trong phòng khách. Trước khi tụng anh lại cất tiếng hát, hay có thể là một bài kinh gì đó có âm điệu đặc biệt. Giọng anh u ơ tỏa ra trong bầu khí lắng đọng âm u của làng quê vắng vẻ. Rồi anh vào phòng coi tôi ngủ chưa, bảo ‘mai dẫn đi coi bói’.

Hai vợ chồng dắt theo đứa con gái đầu Tergini 7 tuổi cùng đi. Tergini trắng bong như mẹ, chỉ có đôi mắt giống cha. Chúng tôi đến một tu viện Tây Tạng lâu đời nhất ở làng, đi nhiễu xung quanh chính điện theo truyền thống Tây Tạng, rồi vào hậu viện gặp một vị sư đã lớn tuổi. Ông pha trà bơ, lấy một cuốn sổ nhỏ bằng bàn tay đã rách cũ viết đầy Tạng ngữ, bìa cuốn sổ có treo một chùm giây cũng cũ mèm. Ông hỏi Star muốn hỏi cái gì.

‘Con muốn biết nên cho Tergini học ở nhà hay đến trường?’

Ngôi làng có một trường tiểu học. Star vừa đan móc vừa dạy con, cô muốn cho con học ở nhà hết bậc tiểu học theo chương trình Úc chứ không muốn cho con theo chương trình Tây Tạng. Vị sư lần những sợi giây trên bìa cuốn sổ. Ông trầm ngâm, thỉnh thoảng đưa cuốn sổ lên trán.

‘Học ở nhà tốt hơn.’

Star reo lên. Hai mẹ con ôm nhau mừng rỡ. Vị sư nói thêm:

‘Người du mục đi đâu mang con cái theo, có ở một chỗ đâu, tùy trời.’

Ông mặc nhiên coi Star thuộc cộng đồng Tây Tạng, như đó là cá tính của người du mục, không ước lệ, đón nhận sự xa lạ như lẽ tự nhiên. Tùy trời mà.

Ông dẫn chúng tôi lên tầng trên cùng của điện chính. Đó là khu không dành cho công chúng. Bên trong thờ các vị thành tựu từng tu trong động núi Hi Mã Lạp Sơn. Ông bảo tất cả ngồi xuống, rồi như một cách dạy không lời, ông xếp bành, nhắm mắt, mũi khịt nhiều tiếng mạnh rền cả căn phòng. Cô bé Tergini sợ hãi ngó quanh quất.

Buổi trưa, tôi từ giã để lên khu Upper Dharamsala. Star bảo nếu thích thì cứ ở đây, hằng ngày hai vợ chồng sẽ bới xách vì đó là cách sống của người Tạng, khi nào hết visa thì xin tiếp. Người Tạng rất hạnh phúc khi làm những việc như vậy, cô bảo.

Tôi nói phải đi, ở một chỗ không yên vì đã thành người du mục. Du mục mà không được lang thang thì giết quách họ cho rồi. Urgyen liền bắt lấy câu nói, bảo vợ:

‘Em thấy chưa, bởi anh phải đi hoài là vậy.’

‘Thì em nói gì đâu, chỉ xin anh đi theo thôi mà.’

‘Em mới là bán du mục,’ giọng Urgyen trầm xuống. ‘Đôi khi anh muốn một mình, đôi khi anh muốn đi một mình.’

Tôi vác ba lô ra cửa. Bên ngoài anh của Urgyen đã nổ máy xe chờ sẵn cho một đoạn đèo trắc trở nguy nan trèo lên miền Thượng. Chợt bé Tergini vít tôi ngồi xuống, đưa hai tay xoa má, nước mắt ứa ra lặng lẽ.

Đời du mục, mấy ai đưa, khi đi cũng được những giọt lệ thơ ngây trong trắng.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.