Hôm nay,  

Chết Để Làm Gì

19/10/201300:00:00(Xem: 9386)
Hồi ký Lê Ngọc Danh

Chết để làm gì? Ai nói câu đó? Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Ai nghe được? Trung úy tùy viên Lê Ngọc Danh. Ghi nhận ở đâu? Trong tác phẩm Nguyễn Khoa Nam của gia tộc Nguyễn Khoa.

Người nói như vậy có phải đang hoảng loạn tâm thần hay không? Không hề. Lúc đó tướng quân Nguyễn Khoa Nam hết sức sáng suốt, bình tĩnh và dũng cảm. Nhắc lại ‘Chết để làm gì’ như vậy có phải là sỉ nhục một danh tướng VNCH không? Tầm bậy. Lê ngọc Danh viết lại với tấm lòng tôn kính ông thầy. Dòng họ Nguyễn Khoa in trong sách với niềm hãnh diện chia xẻ với toàn quân. Tôi viết lại nguyên văn vì chợt bắt được linh hồn của chữ nghĩa. Các bạn chê bai là chưa tỏ ngọn ngành. Nhưng cũng nhờ những phê phán loạng quạng tôi có dịp giảng giải nguồn cơn. Thực vậy, các bạn thắc mắc loạn ngôn nhưng tôi phải cảm ơn, chính vì các bạn mà tôi viết lại đầu đuôi câu chuyện này.

Di ngôn tự vấn

Từ nhiều năm trước, tôi đọc hồi ký Lê Ngọc Danh, chợt đến những đoạn nghe đối thoại của thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, tôi lặng người. Tôi suy tư về tư duy của con người đã nói lên những lời bất hủ đó. Khi tùy viên báo tin tướng Minh đầu hàng. Ông nói: Qua biết rồi. Khi báo cáo các sĩ quan thân cận di tản. Ông nói: Đi làm gì. Khi được thương binh yêu cầu: Thiếu tướng đừng bỏ tụi em. Ông nói: Không! Qua không bỏ tụi em. Khi báo cáo phó tướng tự tử. Ông nói: Chết để làm gì. Những lời ông nói lúc đó không phải dành cho thủ hạ. Không phải dành cho chúng ta. Tướng Nguyễn Khoa Nam nói cho chính ông. Ông tự hỏi và tự đi tìm câu trả lời. Bây giờ 38 năm sau, xin các bạn cùng tôi tìm hiểu. Tôi phải viết lại câu chuyện từ đầu như sau.

Những lời cuối cho miền Nam.

Lịch sử ghi rằng. 1954 Geneve chia đôi đất nước. Đất nước trở thành 2 miền Nam Bắc. Trải qua 21 năm đấu tranh chính trị rồi chiến tranh thực sự. Tháng 4 năm 1975 Bắc quân tràn ngập các quân khu 1,2 và 3. Quân khu 4 của tướng Nguyễn Khoa Nam với 3 sư đoàn, 18 tiểu khu và 200 ngàn quân vẫn còn yên tĩnh. Tổng thống và thủ tướng cùng bàn giao và ra đi. Đại tướng tổng tham mưu trưởng cũng ra đi. Trung tướng quyền tổng tham mưu trưởng điện thoại cho tướng Nam yêu cầu chuẩn bị đón chính phủ và bộ tổng tham mưu tái phối trí về miền Tây. Tướng Nam điện thoại cho tư lệnh sư đoàn 9 đưa trung đoàn Long An chuẩn bị lên đường. Liền sau đó lệnh hủy bỏ. Vị tổng thống dân sự chưa nhậm chức được 1 tuần đã chuẩn bị bàn giao cho vị đại tướng cuối cùng.

Chiều 29 tháng 4- 1975 thiếu tướng Phạm văn Phú quê Hà Đông, 47 tuổi uống thuốc độc tự tử tại nhà, tự nhận trách nhiệm làm mất vùng 2. Chở vào nhà thương Grall cấp cứu. Ông qua đời sáng 30 tháng 4, trước khi có lệnh đầu hàng. Trưa 30 tháng 4 đại tướng Dương văn Minh ra lệnh buông súng trên radio Sài gòn. Tại Cần thơ, trung úy Lê ngọc Danh bước vào phòng tư lệnh quân đoàn 4 báo cáo chưa hết lời, tướng Nguyễn Khoa Nam ngồi coi giấy tờ, ngước lên nói: Qua biết rồi.

Trung tá cảnh sát Nguyễn văn Long sinh trưởng tại Huế, 56 tuổi, nghe tin radio đã tự sát bằng súng lục tại công viên giữa thành phố Sài Gòn. Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, quê Sơn Tây, 42 tuổi, bình tĩnh ngồi ăn 3 bát cơm với các sĩ quan rồi rút vào phòng tự tử bằng súng tại bộ tư lệnh Lai Khê.

Từ căn cứ Đồng Tâm nghe tin đầu hàng, chuẩn tướng Trần văn Hai, quê Gò Công, 50 tuổi, tư lệnh sư đoàn 7, điện thoại qua Mỹ Tho từ giã tướng Huỳnh văn Lạc tư lệnh sư đoàn 9 bộ binh. Sau đó ông Hai uống thuốc độc tự tử. Trở lại Cần Thơ, tùy viên lại vào phòng tư lệnh báo cáo các sĩ quan quân đoàn bắt đầu di tản. Tư lệnh Nguyễn Khoa Nam vẫn ngồi ở bàn giấy, nhìn lên nói. Đi để làm gì.

Ông tự hỏi nhưng đã tự tìm thấy câu trả lời. Ông quay sang chỉ thị cho tùy viên chuẩn bị xe. Lúc đó là chiều 30 tháng 4. Sài Gòn đang náo loạn. Những chiếc trực thăng cuối cùng của Hoa Kỳ đã rời tòa đại sứ từ sáng sớm. Bến Bạch Đằng vắng lặng vì toàn thể hạm đội VNCH đã ra khơi đêm qua. Đoàn tầu quân vận của chúng tôi đi sau hải quân nhưng chưa ra khỏi cửa sông đã nghe lệnh đầu hàng. Trong khi đó, tại miền Tây, tướng Nam, tưởng chừng một ngày như mọi ngày, đi thăm thương binh tại quân y viện Phan thanh Giản giữa 1 thị xã Cần thơ vắng lặng. Thương binh ngóc đầu nói với vị tư lệnh: Thiếu tướng đừng bỏ tụi em. Tư lệnh nói: Không, Qua không bỏ tụi em. Bước ra cửa bệnh viện, tùy viên thấy tư lệnh chùi nước mắt. Trở về tư dinh, tư lệnh vẫn mặc quân phục thắp hương lễ Phật.

Hai lần phái đoàn cộng sản vào gặp tư lệnh rồi lại đi ra. Tối 30 tháng 4 tùy viên Lê ngọc Danh qua nhà tướng tư lệnh phó Lê văn Hưng. Nghe tiếng súng nổ. Chuẩn tướng Lê văn Hưng quê Gia Định, 42 tuổi, đã vào phòng riêng tự sát. Trở về báo cáo. Vị tư lệnh quân đoàn nói. Chết để làm gì.

Ông nói với tùy viên, nhưng thực sự là tự hỏi mình. Tùy viên kể lại, ông vẫn mặc quân phục nằm suốt đêm 30 tháng 4. Đèn vẫn sáng trên bàn thờ Phật. Buổi sáng sớm 1 tháng 5-1975 ở Cần thơ. Thành phố vẫn vắng lặng. Ba thầy trò đứng nhìn xuống đường. Tư lệnh đứng giữa, hai tùy viên 2 bên. Tư lệnh chợt bật khóc. Hai anh trung úy trẻ tuổi trẻ cũng khóc theo. Giọt nước mắt của những chiến sĩ khóc cho cả 1 đạo quân. Dường như có máu trong nước mắt đàn ông. Quay vào tư lệnh bình tĩnh giao 2 va ly cho 2 anh sỹ quan. Các anh vừa ra khỏi phòng, ông lấy súng bắn vào đầu tự tử.

Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, sinh quán Thừa Thiên, năm đó 48 tuổi. Tiếng chuông thỉnh Phật lần cuối dường như vẫn còn vang vọng trong không gian với khói hương nghi ngút. Tướng Nguyễn Khoa Nam đã sống 1 ngày 30 tháng 4 dài nhất của đời lính.

Ông đã tự tìm thấy các câu trả lời. Đi để làm gì. Ông không đi. Chết để làm gì. Ông biết ông chết để làm gì. Rất sáng suốt và bình tĩnh. Ông chọn cái chết. Ông là mặt trời chói lọi của tháng 4 năm 1975.

Chết để làm gì. Đó chính là di ngôn tự vấn.
tuong-nguyen-khoa-nam
Thắp hương.

Suy luận cổ Kim.

Sau cùng tướng Nguyễn Khoa Nam đã để lại di ngôn bằng 1 câu hỏi. Ông đưa ra 1 bài toán và ông đưa ra lời giải đáp.

Ngày xưa ở trong Nam năm 1867 tại Cần thơ, cụ Phan thanh Giản không giữ được 3 tỉnh miền T ây cũng đã tự tử. Ngài cũng biết chết để làm gì. Ngoài Bắc, Nguyễn Tri Phương 1873 rồi đến Hoàng Diệu 1882 cũng không giữ được thành Hà Nội nên đã tự tử. Các ngài đã biết là chết để làm gì.

Con người ta thường hỏi là chết rồi sẽ đi đâu. Không ai hỏi là chết để làm gì. Chỉ có những người tự quyết định tính mạng của mình mới có thể đặt câu hỏi chết để làm gì.

Trong đoạn cuối của chiến tranh Việt Nam, người chiến binh thường không có cơ hội lựa chọn. Cộng sản ào đến biển người hô lớn. Hàng sống, chống chết. Sự lựa chọn không có suy nghĩ. Giơ tay lên sống, không giơ tay lên bị bắn. Đại tá Hồ ngọc Cẩn là công giáo nên không tự sát. Ông không giơ tay đầu hàng nên bị xử bắn sau khi bị hành hạ suốt 4 tháng dài. Ông không đầu hàng có nghĩa là đã chọn con đường chết. Ông tự sát trong phiên tòa cộng sản. Ông tự sát bằng những viên đạn thù xử bắn. Trên bảng vinh danh anh hùng tuẫn tiết, chúng tôi ghi nhận 7 người chiến sĩ. Sự lựa chọn không trong tầm tay anh chị em xây dựng dự án. Toàn thể hải ngoại đã công nhận trong 38 năm qua. Có tên tuổi, hình ảnh, có tiểu sử và chiến tích. Có nhân chứng cho tới giờ phút cuối cùng. Sau cùng tất cả đều là lính Việt Nam Cộng Hòa. Khi nhập ngũ họ đều là lính. Cấp bậc chỉ là hình thức trong binh đoàn. Họ đã sống như người lính và tuẫn tiết như những người lính có trách nhiệm.

Bây giờ nói đến chuyện trả lời câu hỏi Đi để làm gì. Trong anh em chúng ta dù ở lại hay ra đi, nếu có cơ hội lựa chọn lấy quyết định cũng là 1 thái độ mà phê phán suốt cả cuộc đời chưa hết chuyện. Bây giờ ở hải ngoại này dường như ai cũng đã ra đi. Kẻ trước người sau.

Tất cả đều phải trả lời cho tướng Nam câu hỏi. Đi để làm gì?

Nếu ngày xưa 30 tháng 4-1975 ông Nam đưa ra câu hỏi: Chết để làm gì? thì ngày 2 tháng 1-1961 khi Kennedy lên làm tổng thống, ông cũng đã có câu trả lời cho vấn nạn sống để làm gì.

Đừng hỏi đất nước này đã làm gì cho anh, hãy tự hỏi anh đã làm gì cho đất nước. Câu nói đó của Kennedy đã được khắc trên bia đá tại nhiều nơi trên nước Mỹ. Cũng theo danh ngôn này, người ta đã dùng để tu thân suốt cả cuộc đời. Xin đừng đòi hỏi người khác phải làm cái này, cái nọ; hãy tự hỏi mình xem đã làm được gì cho bản thân, cho gia đình, cho cộng đồng, cho đất nước tạm dung và cho quê hương bỏ lại. Lịch sử luôn luôn ở bên những người hành động. Lịch sử không có chỗ cho các bạn ngồi phê phán. Có ý kiến hay, xin bạn đứng lên làm lịch sử.

Bài diễn văn lịch sử:

Nhân nói đến chuyện khắc các di ngôn trên bia đá. Xin kể các bạn câu chuyện dành cho phần kết.

Năm 1863, trận chiến kinh hoàng nhất của chiến tranh Nam Bắc Hoa Kỳ xảy ra tại vùng Gettysburg thuộc Pennsylvania giữa binh đoàn Potomac Liên bang Union và binh đoàn Bắc VA của phe Liên hiệp Confederate. Đây là trận quyết định với chiến thắng về phe liên bang. Chiến trường đẫm máu với 51,000 thương vong, trong số này có 7,500 binh sĩ cả hai bên chết vì gươm giáo còn để xác tại chỗ. Trải qua nhiều ngày, các xác chết 2 bên đã bốc mùi nên dân ở thị xã nhỏ bé Gettysburg có vài ngàn người phải ngày đêm lo chôn cất. Một nghĩa trang 17 mẫu được thành lập. Ban tổ chức làm lễ tưởng niệm vào ngày 19 tháng 11 năm 1893. Diễn giả chính là 1 nhân vật danh tiếng từng là thượng nghị sĩ, thống đốc và viện trưởng Harvard. Khách mời có tổng thống Lincoln dự trù sẽ nói vài lời trước khi chấm dứt.

Sau khi ông diễn giả chính nói chuyện 2 giờ đồng hồ, tổng thống Lincoln đọc bài phụ diễn chưa đến 3 phút gồm có 272 chữ trong 10 câu. Bắt đầu bằng câu:

81 năm trước, ông cha ta đã tạo dựng trên lục địa này 1 quốc gia mới, thai nghén trong tự do.

Câu cuối cùng là: Một chính quyền của dân, do dân và vì dân sẽ không thể tàn lụi trên trái đất này.

15 ngàn người gồm các thống đốc và chính khách có mặt. Tất cả đã sững sờ nghe trực tiếp bài diễn văn bất hủ. Đây là những lời nói khuôn vàng thước ngọc và trở thành bài diễn văn nổi tiếng kim cổ trên toàn cầu. Đặc biệt bài diễn văn này tuyệt đối không đề cập đến chiến thắng hay chiến bại. Không nói đến bạn hay thù. Tổng thống nói: Những người nằm xuống ở đây đều đã chết cho tổ quốc.

Người ta khắc bài diễn văn trên đá tại các thư viện, tại các trường đại học và tại nhà mồ của ông Lincoln ở Springfield, Illinois.

Đó là lý do chúng tôi muốn có cơ hội khắc trên bia đá những lời của tướng Nguyễn Khoa Nam. Những lời nói ngắn ngủi của ông phản ảnh triết lý sống và chết của con người. Ra đi hay ở lại. Câu hỏi của cả nhân loại trên con đường tìm đất sống, tìm tự do. Con đường mưu cầu hạnh phúc. Sống để làm gì, và chết để làm gì.

Lời Chúa và lời Phật nói ra cũng phải có người chiêm nghiệm và giải thích. Phải viết thành Kinh Thánh hay Kinh Phật để truyền bá và học hỏi.

Đi hay ở. Tại sao. Đi để làm gì.

Sống hay chết. Sống để làm gì và chết để làm gì.

Tôi không biết rằng có thuyết phục được ban tượng đài khắc lời của tướng Nguyễn Khoa Nam thành câu chuyện Anh Việt ở phía sau bức tường hay không. Nhưng câu chuyện và lời nói của ông đã khắc sâu trong tim tôi. Mãi mãi, chẳng bao giờ ai lấy ra được. Đi để làm gì, tôi đã có câu trả lời bằng nửa cuộc đời. Chết để làm gì. Tôi chưa biết.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trước hiện trạng kỳ thị, không chỉ bạo hành bằng lời nói, mà còn tấn công hung bạo và bắn giết khiến nhiều người đã thiệt mạng hoặc bị thương tích nặng, các chuyên gia và các nhà hoạt động đã đưa ra một số biện pháp để chống trả vấn nạn này và giúp các thành viên trong cộng đồng tự bảo vệ
Lực lượng “ăn cháo đá bát” rất đông và lan nhanh như bệnh dịch, nhưng chưa bao giờ được công khai cho dân biết để dân bàn, dân kiểm tra. Ngược lại, dân lại là nạn nhân của đám ong nuôi trong tay áo từ bao năm nay. Chúng nằm trong ngành Tuyên giáo, trước đây gọi là Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương. Sau lưng đảng còn có đội ngũ chuyên nghề nói thuê và viết mướn gồm Báo cáo viên và Dư luận viên được trả lương bằng tiền thuế của dân.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
Tôi là anh trưởng trong gia đình, với 9 đứa em cả trai lẫn gái, nên trách nhiệm thật khó khăn, từ nhân cách cho đến cuộc sống. Nhưng may mắn tôi gặp được những người anh ngoài xã hội để noi gương và học hỏi. Một trong số những nhân vật hiếm hoi đó, chính là anh Nguyễn Văn Tánh, người mà tôi đã có cơ hội được tiếp tay hỗ trợ và đồng hành cùng anh trong suốt 20 cuộc Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế Liên Hiệp Quốc tại thành phố New York từ 20 năm qua.
Tôi tha phương cầu thực gần như trọn kiếp (và may mắn lạc bước đến những nơi không thiếu bơ thừa sữa cặn) nên bất ngờ nhìn thấy mảnh đời cùng quẫn thì không khỏi chạnh lòng. Nghe tiếng mời chào khẩn thiết, nhìn những khuôn mặt khẩn cầu của đồng bào mình mà muốn ứa nước mắt.
Các định kiến tai hại đối với các phụ nữ Á Châu trong văn hóa đại chúng của Mỹ đã có từ ít nhất thế kỷ thứ 19. Từ đó, các nhà truyền giáo và binh sĩ Mỹ tại Á Châu đã xem phụ nữ mà họ gặp đó như là ngoại lai và dễ tùng phục. Các định kiến này đã ảnh hưởng luật di trú đầu tiên của Hoa Kỳ dựa vào chủng tộc, Đạo Luật 1875 Page Act, ngăn cản các phụ nữ Trung Quốc vào Hoa Kỳ. Giả thuyết chính thức là rằng, ngoại trừ được chứng minh ngược lại, các phụ nữ TQ tìm cách vào Hoa Kỳ đã thiếu tư cách đạo đức và là những gái mại dâm. Trên thực tế, nhiều người là vợ tìm cách đoàn tụ với những ông chồng là những người đã đến Hoa Kỳ trước đó. Khoảng cùng thời gian đó, các phụ nữ TQ tại San Francisco cũng bị làm dê tế thần bởi các viên chức y tế địa phương là những người sợ rằng họ sẽ lây truyền các bịnh lây lan qua đường tình dục cho các đàn ông da trắng, là những người sau đó sẽ lây lan cho các bà vợ của họ. Vào giữa thế kỷ 20, các căn cứ chiến tranh và quân sự của Hoa Kỳ tại TQ, Nhật, Phi Luật Tân,
Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Xuân Phúc … quả đúng là những kẻ thuộc giới ăn trên ngồi trốc. Họ là những hạt giống đỏ được gieo trồng từ miền Bắc, và đã ươm mầm thành cây. Loại cây này, học giả Phan Khôi gọi một cách lịch sự là cây Cộng Sản. Còn dân gian thì gọi là cây cứt lợn!
Nếu đảng đủ can đảm và ông Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng còn đủ bản lĩnh của một Lãnh đạo gương mẫu trong công tác phòng, chống tham nhũng thì hãy công khai cho dân biết Tổ chức Thanh niên của đảng đã làm được những gì cho dân cho nước trong 90 năm qua. Hay ngót 7 triệu Đoàn viên TNCS chẳng làm được trò trống gì, ngoải vai trò tay sai đã tuyệt đối trung thành với đảng và với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh?
Adam Smith và Karl Marx cùng được gọi chung là kinh tế cổ điển (classical economy) tức là lao động (labour) tạo ra giá trị (value.) Khác ở chổ Smith quan niệm thị trường tự do giúp mọi người hưởng thụ giá trị lao động còn Karl Marx lên án giá trị lao động của công nhân bị tư bản bóc lột. Vào đầu thế kỷ thứ 20 xuất hiện một cách nhìn mới là giá trị (value) do nơi tiện ích (utility) thay vì từ lao động (labour). Thí dụ một người đang khát uống ly nước đầu thì thật ngon, ly thứ nhì vừa vừa còn ly thứ ba đầy bụng nuốt không vô, tức là giá trị của mỗi ly nước giảm khi nhu cầu tiện ích hạ thấp. Quan điểm này gọi là Giá Trị Biên Tế hay Marginal Value.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.