Hôm nay,  

Mây Nhiều Hơn Núi

22/10/201300:00:00(Xem: 9410)
Upper Dharamsala không ngày nào không mưa, không ngày nào không mây trời tràn khắp những con đèo quặn thắt tróc lở. Mùa mưa thì trời mưa. Tôi đến vùng Thượng Dharamlasa cuối tháng 8. Mưa đón chào một trận ở bến xe. Lên đèo và xuống đèo lội nước đến nhà trọ. Những dòng nước trắng bong vô kỷ luật trào từ sườn núi rào rạt tiếng gọi lung tung.

Mở cửa phòng ra nhìn thấy núi cao ngang tầm mắt. Mưa ngưng nắng tới liền. Nhưng nắng nửa giờ là giỏi. Từ hút dưới thung lũng, một sợi mây lẩn thẩn trồi lên. Rồi thong dong thêm vài cột mây từ vực sâu rủ rê nhau, quấn thành một đám. To dần. Cho đến khi cả một trời mây từ thung lũng chen lên cao bít kín đỉnh núi xanh. Chưa đã, không cần gió mây vẫn trôi. Trôi thủng thỉnh cả một khối trắng bạc dửng dưng. Dửng dưng lửng lửng tràn vào phòng. Đóng cửa phòng thì sương mây chen vào khe cửa. Chạy đi đâu cho thoát cảnh trời mây bạc lạnh. Thôi thì cứ mở cửa ra đón hắn vào đường hoàng. Coi hắn làm gì được mình. Thiền sư Nhất Biến có câu ‘mây ở nửa căn ta nửa căn’ chắc là cái cảnh lạnh tanh này.

Đức Đạt Lai Lạt Ma ở trong khuôn viên một ngôi chùa không lớn lắm, không nguy nga như những tự viện khác. Tường cũ, màu trắng cũ nhạt có những viền vàng mang một vẻ buồn buồn ưu tư. Những bậc thang bằng đá cũng cũ, không cầu kỳ. Ngôi chùa nghèo nghèo, gần gũi, rất đủ bầu khí của một ngôi chùa bình dị. Các tôn tượng lớn chừng mực. Tôi thích nhất một pho tượng vàng óng đứng chồm tới, nghìn tay cầm binh khí vung ra mười phương, cổ choàng đầu lâu trắng, khuôn mặt hiện tướng phẫn nộ, đôi mắt tròn xoe tóe lửa. Đôi mắt nhìn trừng vào thế gian, bộ tướng hung dữ phóng ngàn ánh lửa mạnh mẽ. Pho tượng đồng toát lên một oai lực đẹp đẽ và thu hút lạ kỳ, nó khiến ta vỡ tan từng mảnh trước hình ảnh tràn đầy dũng lực không thể nào tả nổi.

Có thể đây là tượng Quán Thế Âm, hay thân tướng Đà La Tôn (Tara), vị bồ tát hóa sanh từ giọt nước mắt của Phật Bà. Nghìn tay nghìn mắt vẫn không cứu hết nỗi đau. Phải nghìn giọt nước mắt thương xót, giỏ xuống đời. Mỗi giọt lệ hóa thành một vị Tara. Nước mắt của một bậc thành tựu may ra lau dịu những cơn thắt ruột. Đại sư Govinda người Đức, đã viết trong The Way of the White Clouds khi ông cảm kích rung động trước hiện tướng của các bậc thành tựu trong căn phòng dành riêng để thờ Phật Di Lặc:

Có phải Người là sứ giả
của kẻ đáo bỉ ngạn
và thả bè cho chúng sanh
vượt qua dòng suối giận?
Con chẳng gặp Người chăng
nơi nào con bước chân? –
con thấy Người trú ẩn
trong mắt em mắt chị mắt anh;
con nghe tiếng Người vang
trong tiếng nói của Thầy;
và gặp Người ở tận
trong vòng tay mẹ an lành.


Đại lực của pho tượng tràn khắp niệm phòng thinh lặng. Mây bên ngoài lặng lẽ đi vào những ô cửa gió quanh nóc điện. Sà xuống, vương víu quẩn quanh rồi xuyên qua cửa sổ ra ngoài triền núi đầy thông xanh.

Chỗ ở của đức Đạt Lai Lạt Ma đối diện chính điện, cách một cánh cổng lớn có lính gác bên trong. Dharamsala chỉ có núi. Đèo là đường giao thông chính. Không có một chỗ nào có thể gọi là bằng phẳng, nói chi đồng bằng. Vì thế từ nhà của đức Đại Lai Lạt Ma qua chùa cũng phải trèo lên cao. Nước trôi xuống chỗ thấp, từ nơi thấp xuống thung lũng. Hơi nóng từ hướng nam kéo về gặp khí lạnh nơi này thành sương mây. Mây lửng thửng mà ngang dọc, màu trắng trùm lên những pho tượng, những tấm thangka và bích họa rực rỡ đen đỏ vàng nâu như tấm khăn voan mầu nhiệm. Mây trắng lay động theo những bóng người di động. Mây trắng phơ ngang màu xanh của núi. Màu vàng của tượng chìm trong mây trắng. Màu nâu của áo tăng chìm trong mây trắng. Rừng thông xanh thẳm nhạt dần phía chân núi. Lặng lẽ.

Nên con người sống ở đây cũng lặng lẽ.

Lạnh. Mưa. Mây.

Vùng đất này được trao cho người Tây Tạng lưu vong. Những triền núi Hy Mã loanh quanh chụm đầu vào nhau, quay thành những vực sâu, làm thành chỗ ngụ cư cho người lưu lạc buồn. Đôi khi đá cũng buồn, lăn long lóc xuống đường đèo, lối đi nghẽn nhưng người lưu lạc vẫn thản nhiên. Đá lăn là chuyện của đá. Mây mù là chuyện của mây. Mình cứ đi.


Một nhà sư ở Dharamsala.

Hình ảnh của đức Đạt Lai Lạt Ma ở đây khác hẳn những lần ngài đi thuyết pháp ở nước ngoài. Không xe hơi bóng loáng trên những con đường rộng và sạch, giữa những con người tươm tất sang trọng áo quần, trong những bóng đèn điện sáng choang.

Nơi đây, ngài đi giữa những người áo quần luộm thuộm, những người Tây Tạng quấn khăn, cổ đeo các loại đá đủ màu, cổ tay quấn tràng hạt, tay cầm chuông cầu nguyện chậm chạp bước trên đường dốc. Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng bình dị trong tấm áo nâu, chậm chạp bước và mỉm cười nhìn con dân, hay trong chiếc xe hơi đời cũ.

Một buổi sáng đi học, bỗng tôi nghe tiếng chào từ một con đường nhỏ tẻ ra từ sườn núi. Một vị sư Tây Tạng cao lớn, mỉm cười hềng hệt đứng ngay chỗ quanh, cứ như từ trong rừng hiện ra.


Tôi hỏi thưa thầy đi đâu. Ông bảo ‘tôi đi cùng hướng với anh.’ Chúng tôi lặng lẽ đi nhưng không nói chuyện vì đường dốc. Chợt trong đầu tôi lóe lên ý nghĩa sao thầy tự nhiên chào trước mà mình không hỏi thăm! Trong cuộc sống, không có gì là tình cờ, cái ta cho là ngẫu nhiên cũng có cái lý ngẫu nhiên của nó. Tao ngộ có ki là phùng ngộ, từ những sắp sẵn vượt khỏi hiểu biết. Trong nhiều thầy và người đi cùng hướng, sao chỉ có vị này chào trước. Chào xong không nói tiếng nào?

Tôi hỏi thưa thầy ở chùa nào. Ông quay người lại chỉ ngược lên một sườn núi, nhưng nhìn theo hướng tay ông chỉ thấy màu xanh của rừng thông trên triền núi dốc và dài thăm thẳm. Ông giải thích thêm là ‘chùa’ của ông không có tên. Không phải nơi để bá tánh đến. Đó là một cái chòi lợp tôn, bốn bức vách bằng những phiến đá chồng lên nhau. Chỗ mật tu của thầy khổ hạnh.

Tôi mời ông ghé vào một quán bên đường uống trà, ông nhận nhưng không ngồi bên ngoài mà chọn một bàn kín phía bên trong. Hai tay ông nâng tách trà bơ, thái độ điềm nhiên mà trân trọng, đọc kinh trước khi uống. Tôi không chắc ông bao nhiêu tuổi, chỉ đoán chừng sáu lăm hay bảy mươi gì đó. Cử chỉ và nét mặt thản nhiên của ông toát ra một không gian an bình. Tôi xin ông chụp chung một tấm hình nhưng ông khoát tay, bảo ông không được và không bao giờ chụp hình. Tôi sung sướng khi nghĩ sẽ xin ông dắt lên chỗ mật tu của ông. Vậy mà, chẳng hiểu bằng cách nào khi bước vô trong tính tiền, chỉ một thoáng quay ra thì không thấy ông đâu nữa.

Buổi trưa, cũng bất chợt như nắng đến, mưa dội dồn dập trên đường đá. Tôi đứng núp trên một hẻm đèo khác. Vài con bò đen nằm thản nhiên giữa lối. Người dân Ấn đi đường tránh bò, làm đường tránh cây. Riêng cả vùng Dharamsala này không ai dùng bao nhựa, đồ đựng đều bằng giấy. Thiên nhiên có sẵn. Con người bảo vệ.

Bất chợt vị sư đứng trước mặt tôi, cười hềnh hệch. Ông hiện ra bất ngờ như hồi sáng từ lối nhỏ. Ông che dù, ra dấu bảo tôi theo. Ghé ngang một hàng trái cây, ông lúi cúi lựa khoai tây và cà chua, bảo mua đủ ăn hai tuần. Ông nhờ tôi cầm một tấm áo nâu vì bận xách giỏ trái cây, nói bây giờ lên chỗ tôi, gần. Chỉ chừng hai tiếng là tới.

Chúng tôi leo núi chậm rãi. Đường dốc dần nhưng không cần tới mây vì sương khói đã sẵn xung quanh. Ông đi không nghỉ nên tôi cũng ráng sức không nghỉ. Từ một độ cao, ngang một khúc quành, nhìn xuống thấy cả cụm quần cư Dharamsala, cả ngôi chùa của đức Đạt Lai Lạt Ma lấp ló ẩn hiện. Những căn nhà nằm quanh bốn triền núi, triền núi chụm vào nhau đổ dốc xuống thung lũng sâu. Ở những tổ bồ câu ấy đã thấy bình yên, nhưng từ trên cao nhìn xuống, từ đỉnh núi lặng thinh mây trời, bỗng thấy tội nghiệp những người sống trong cụm quần cư lao nhọc. Hình ảnh đức Đạt Lai Lạt Ma giữa những ngôi nhà xúm xít chợt tỏa sức biểu tượng của một vị bồ tát dấn thân vào chốn người.

Vị sư ra dấu đã đến chỗ không được nói lớn. Bây giờ lối đi nhỏ chỉ có đá, chỉ vừa một người đi. Một bên sườn núi dốc, những cây thông thẳng đứng, những cây cổ thụ bám rêu xanh lóng lánh nước trong vắt những giọt bịn rịn trên màu xanh cây. Thỉnh thoảng trong rừng sâu, vài túp lều đá hiện ra nhưng không một bóng người.

Ông dẫn tôi đến căn lều đá của ông. Cổng nhỏ có một miếng tôn đã rỉ sét che ngang. Ông dỡ tấm tôn, bảo tôi cúi đầu vì trần nhà thấp. Bên trong có mái hiên nhỏ che tấm ván kê trên bốn cục đá. Có lẽ là chỗ ông ngồi ngắm tường đá. Trong căn phòng sáng lù mù rộng chừng sáu thước vuông của ông có một bàn thờ nhỏ, một miếng ván kê làm giường, những tấm mềm cũ gần mục rã. Tường bằng những miếng đá chồng lên nhau, kết dính bằng đất nhão.

Xem cơ ngơi của đại gia xong, ông dắt tôi đi viếng ngôi tháp nhỏ nơi chôn nhục thân vị thầy của đức Đạt Lai Lạt Ma. Chúng tôi đi nhiễu nhiều vòng quanh ngôi tháp nhỏ. Lá rừng như sóng sánh âm thanh thinh lặng. Mây như tấm khăn choàng trắng người Tạng thường quấn quanh cổ trong các dịp lễ. Bước chân trần của thầy trầm tư. Không gian trầm mặc tưởng chừng nỗi thinh lặng vang thành tiếng.

Tiếng gì? Không biết. Tiếng kêu của một con đại bàng nhỏ. Tiếng bàn chân trần dẫm lên đá sỏi. Mưa tóc tách trên lá.

Bây giờ là mùa gì. Nơi này là chốn đâu. Không âm thanh sao biết mình ở đâu. Không động chuyển nào hay mùa tháng mấy.

Ông dẫn tôi trèo. Những giọt nước trong tinh từ lá xuyên qua làn mây mỏng trắng trong, rơi trên áo nâu sòng thấm đẫm. Ông đi loanh quanh trên những lối nhỏ loanh quanh. Những viên đá nhỏ rơi xuống sâu. Rồi rất bất chợt, nắng tóe ra từ nơi nào đấy. Tận thung lũng, một cầu vòng năm màu cong vút lên cao, lướt khỏi đỉnh núi. Quỳ xuống. Mưa còn lăn trên đá, thấm vào lòng đất.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.