Hôm nay,  

Đối Đầu Ấn-Trung Quanh Thân Thế Đức Phật

30/11/201300:00:00(Xem: 5427)
Đỉnh Sóng
(Chuyển ngữ từ: La Chine et lInde saffrontent autour de la figure du Bouddha *** Le Monde Jeudi 19/9/2013)

Đây là một trận chiến tranh dành ảnh hưởng xuyên Hy Mã Lạp Sơn. Chung quanh thân thế Đức Phật, điểm hội tụ của toàn thể những cộng đồng Á Châu - và xa hơn thế - Trung Quốc (TQ) và (Ấn Độ) đối đầu với nhau.

Cuộc đối đầu không ầm ĩ lắm, nó xảy ra kín đáo và đôi khi lén lút, nhưng cũng không kém phần quyết liệt, như một sân chơi mới của một "trò chơi lớn" giữa hai tay khổng lồ Á Châu đã từng có những mặt trận đối đầu khác (tranh chấp biên giới, ganh đua quyết liệt, tranh dành trên Ấn Độ Dương...) Theo ngôn từ thời thượng, cuộc tranh đua âm thầm đó diễn ra trên bình diện quyền lực mềm, thứ quyền lực mà những cường quốc ngày nay cố áp đặt một cách tế nhị lên tinh thần con người, song song với sự phô trương quyền lực cổ điển. Và trên phương diện quyền lực mềm, Phật Giáo, với sức tỏa rạng toàn cầu, cung ứng một tiềm năng mà không một nhà nước nào có thể làm ngơ nếu muốn đóng vai trò lãnh đạo tại Á Châu.

Trong tầng trệt của một khách sạn năm sao ở New Delhi với những bộ sa-lông bọc dạ, hội nghị đầu tiên của Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới (IBC) từ ngày 9 đến ngày 12 tháng Chín vừa chứng kiến giai đoạn chín mùi của cuộc đối đầu đó. Chính thức mà nói, hội nghị đó có tham vọng đóng vai trò "Liên Hiệp Quốc Phật Giáo," một giao điểm kết hợp những trường phái khác nhau - Đại Thừa, Tiểu Thừa, Kim Cương Thừa - của một di sản tinh thần của 400 triệu tín đồ khắp thế giới. Những đại biểu hiện diện tại New Delhi đến từ 40 quốc gia, cho thấy tiếng vang của biến cố nầy. Hãy còn quá sớm để phán đoán về tương lai của IBC. Trước mắt, một điều chắc chắn là: sáng kiến nầy rõ ràng là do khuyến khích của Ấn Độ - người đứng ra tổ chức, Lạt Ma Lobzang, là một cận thần của triều đại Nehru-Gandhi. Sánh kiến đó có những lý do không hoàn toàn tôn giáo. Vai trò của địa chính trị thấy rõ ở đây.

Sự ra đời của IBC là đáp ứng của Ấn Độ trước những hoạt động của một tổ chức khác, World Buddhist Forum (WBF) - Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới, được khai sinh dưới sự bảo trợ của TQ, và là hội nghị đầu tiên được tổ chức vào năm 2006 ở Hàng Châu (phía nam Thượng Hải). WBF là một trong những công cụ để Bắc Kinh tìm cách ve vãn những cộng đồng Phật Giáo như một người cha đỡ đầu tốt bụng. Điều đó được ghi nhận trong một chính sách ngoại giao Phật Giáo tích cực khởi đầu hơn mười năm trước với những cuộc triển lãm lưu động khắp Á Châu về cái "răng" và "ngón tay" của Đức Phật, những di tích được nói là của Đức Phật và TQ hiện sở hữu. Vào năm 2012 ở Hương Cảng, trong thời gian hội nghị kỳ ba của WBF, một mẫu xương sọ được nói là của Đức Phật - được khám phá hai năm trước đó ở Nam Kinh - đã được đem ra triển lãm lần đầu tiên.

Thách thức địa chính trị ở Hy Mã Lạp Sơn

Thoạt nhìn, cử tọa của WBF do Bắc Kinh đỡ đầu không khác mấy so với cử tọa của IBC do New Delhi đỡ đầu. Tổ chức đầu khó lòng vượt qua những biên giới của thế giới TQ (TQ, Hương Cảng, Đài Loan, những sắc tộc gốc Hán ở Đông Nam Á) trong khi tổ chức thứ nhì lại bao gồm những chân trời rộng lớn hơn. Sự khác biệt đó về tác động được giải thích một phần là do vấn đề Tây Tạng. Trong thời gian những cuộc hội nghị diễn ra, WBF phô trương Gyancain Norbu, Ban-Thiền Lạt-Ma thứ XI [ngôi vị thứ nhì trong Phật Giáo Tây Tạng] được Bắc Kinh chọn và tính chính đáng bị thách thức bởi những đồ đệ của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thứ XIV, vị lãnh đạo tối cao của Phạt Giáo Tây Tạng đang lưu vong ở Dharamsala, Ấn Độ. Một trong những mục tiêu của WBF hiển nhiên là tạo điều kiện cho ban-thiền lạt-ma thứ XI thân Bắc Kinh nói trên trình bày với thế giới ý muốn sát nhập Tây Tạng vào TQ, một chủ trương có vẻ phù hợp với lòng yêu nước. Bắc Kinh hy vọng một cơ hội như thế sẽ khiến thế giới công nhận uy quyền của nhân vật nầy, một uy quyền hiện còn què quặt. Ngược lại, những đồ đệ trung thành với Đức Đạt Lai Lạt Ma lại hoạt động trong Hội Nghị IBC được tổ chức ở New Delhi. Thực tế, IBC đầu tư trên ánh hào quang của "Biển Khôn" chiếu trên đại bộ phận của gia đình Phật Giáo, và trên cái thiện bên trên cái áo Tây Tạng của nó.

Trong cuộc tranh đua đó, mỗi nước đều phô trương cái nhản hiệu quý phái của mình. TQ không ngừng nhắc lại rằng họ là quốc gia có nhiều người theo đạo Phật nhất trên thế giới. Về phần mình, vì Phật Giáo đã bị mu lờ qua nhiều thế kỷ do Ân Giáo chiếm đa số, Ấn Độ thắng thế nhờ đã khai sinh ra Đức Phật. Người ta thường nói với Asoka Mission, người tổ chức IBC ở New Delhi, "Ấn Độ là nguồn gốc của Phật Giáo." Đề tài nầy đã gây ra tranh cãi, vì Lâm-Tỳ-Ni, nơi Đức Phật ra đời vào thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên, ngày nay thuộc nước láng giềng Népal; và người dân Népal công phẫn trước tuyên bố đó của Ấn Độ. Tuy nhiên, những thánh địa trong cuộc hành trình tinh thần của Đức Phật và những đồ đệ của Ngài - như Bodh Gaya, Sarnath, Nalanda … - đều dứt khoát ở Ấn Độ, và New Delhi bắt đầu thực hiện những phương tiện để xúc tiến một dịch vụ du lịch hành hương.

Từ nay về sau, chính trên bình diện đó đang diễn ra trận đấu lớn Ấn-Trung chung quanh quyền lực mền Phật Giáo. Thất lợi cho Ấn Độ, TQ vừa tràn vào san sau của những địa bàn của họ. Năm 2011, Asia Pacific Exchange and Cooperation Foundation (APECF), một công ty quốc doanh của TQ có trụ sở ở Hương Cảng, đã đề nghị với Népal đầu tư $3 tỉ (2.25 tỉ Euro) - tức bằng 85% ngân sách tài khóa của xứ nầy - để "phát triển" vùng Lâm-Tỳ-Ni, nổi tiếng là nơi ra đời của Đức Phật. Sáng kiến nầy bất ngờ gây náo động trong vùng Hy Mã Lạp Sơn. APECF đã chọn làm đại diện chính ở Népal một nhân vật nóng nảy nhưng có ảnh hưởng, Pushpa Kamal Dahal, biệt danh "Prachanda", chỉ huy của cuộc nổi loạn thân Mao từng thống nhất các định chế sau hòa ước 2006. Chính Prachanda từng làm thủ tướng Népal từ năm 2008-2009.

Bão hòa của các dự án

Lich sử của dự án phục hồi Lâm-Tỳ-Ni là một vấn đề đã cũ nhưng mới đây nó lại được hâm nóng trở lại. Nguồn gốc có từ năm 1970, khi, dưới sự bảo trợ của Liên hiệp Quốc, Kenzo Tange, một kiến trúc sư người Nhật, đã đề nghị một kế hoạch. Nhưng đà tiến đã bị sa lầy trong đám quan liêu Népal và trong tình thế bất ổn nội xứ của quốc gia nhỏ bé nầy của Hy Mã Lạp Sơn nằm kẹt giữa TQ và Ấn Độ. Vào tháng 3/2010, người ta bắt đầu quan tâm trở lại với sự cải tiến của một kế hoạch mới do một nhóm người Mã Lai gốc Trung Hoa, những môn đồ của Phật Giáo Tây Tạng. Chủ trương là biến Lâm-Tỳ-Ni thành một điểm du lịch quần chúng dành cho những người hành hương, theo hình ảnh của La Mecque đối với những tín đồ Hồi Giáo.

Đương nhiên, kế hoạch đó đã bị "đánh cướp" bởi công ty thân Bắc Kinh, APECF, với viên giám đốc thực sự, tay Xiao Wunan bí ẩn, vốn có nhiều quan hệ cấp cao trong bộ máy của Đảng Cộng Sản TQ. Tay nầy rất năng nỗ trong hệ thống những sắc tộc gốc Hán ở Đông Nam Á. Sự cấu kết của y với tên Népal thân Mao, Prachanda, sẽ đặt để APECF như là lực lượng đi lên trong sự sục sôi đang phục sinh liên quan đến Lam-Tỳ-Ni. Vào mùa Xuân 2011, hai nhân vật nầy hoạch định kế hoạch của họ, y hệ như kế hoạch của những người Mã Lai nhưng xử dụng một lực lượng xung kích chính trị hùng mạnh hơn nhiều. Một vài tháng sau, một nhân vật thứ ba xuất hiện: Kwaak Young Hoon, một kiến trúc sư Nam Hàn, từ lâu rất quan tâm đến Lâm-Tỳ-Ni. Ông ta được hậu thuẫn của Cơ Quan Korea International Cooperation Agency (KOICA), một cơ quan hợp tác của chính phủ Nam Hàn.

Từ đó có sự bão hòa của các dự án dành cho chiếc nôi Đức Phật. Đối trước sự lúng túng, những cuộc tiếp xúc đã bắt đầu nối kết trong năm 2012 giữa người nầy người nọ nhằm điều hợp những sáng kiến dựa theo những biểu mẫu khác nhau và cũng nhằm cám dỗ Liên Hiệp Quốc, vì vùng Lâm-Tỳ-Ni được UNESCO thừa nhận là di tích thế giới của nhân loại. Cùng lúc đó, những ngờ vực chiếm đoạt đầu óc mọi người. Ai phục vụ cho ai? Ai tìm cách khuynh đảo ai? Một giai thoại được Kwaak Young Hoon kể lại với tờ báo Le Monde cho thấy mức độ ngờ vực bao trùm. Kể từ khi xuất hiện trong công trình, kiến trúc sư Nam Hàn đã nhận được một thông điệp từ bộ văn hóa Népal - trong đó những người theo chủ nghĩa Mao Trạch Đông nắm chắc ảnh hưởng - thông điệp nầy đòi hỏi phải cung cấp những "bảo đảm" rằng ông ta không phải là người chống TQ. Do đó, Kwaak đã phải thanh minh là ông không chống TQ.

"Đức Phật là một người Ấn Độ"

Chính lúc đó, Ấn Độ bắt đầu cảm thấy ý đồ chính trị của công ty APECF thân TQ. "Ấn Độ không thể đứng ngoài công trình phát triển Lâm-Tỳ-Ni." Đó là lời phát biểu của Karan Singh, Chủ tịch Hội Đồng Indian Council for Cultural Relations (ICCR) - một trong những công cụ của quyền lực mềm Ấn Độ - và là giám đốc sở ngoại vụ của Đảng Đại Nghị, cơ quan thiết lập quyền chính ở New Delhi. Theo lời của Singh, lý do chính thức của điều này là: "Đức Phật là một người Ấn Độ." Vấn đề cũng là - và có lẽ trên hết - chiến lược.

Trong mắt người Ấn Độ, tham vọng nầy của TQ trên lãnh địa Phật Giáo đầy ấn tượng như Lâm-Tỳ-Ni, lại nằm cách biên giới của họ có vài cây số, tạo ra một thách thức lớn lao về địa chính trị. Nỗi lo sợ cũng rõ ràng bùng lên ở New Delhi. Người Ấn Độ sợ rằng, nếu dự án của APECF thành hình thì Bắc Kinh sẽ chiếm được ảnh hưởng đối với những cộng đồng du mục của Hy Mã Lạp Sơn, với những hậu quả có thể có trên việc kiểm soát sắc tộc Tây Tạng sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma qua đời. "Xuyên qua Lâm-Tỳ-Ni, TQ có thể cấy một đạo quân thứ năm ngay cửa khẩu của Ấn Độ." Đó là nỗi lo sợ của Jayadeva Ranade, một công chức cao cấp hồi hưu Ấn Độ được lưu dụng trong phân tích chiến lược.

Dự án APECF đã phần nào hết hơi - nhưng không chắc bị chôn vùi - vì lý do mối ác cảm mà nó đã gây nên trên vùng đất. Những tín đồ Phật Giáo Népal, phẫn uất vì không được hỏi ý kiến, nên đã huy động binh lính của họ để phản đối sự "chiếm đoạt đất đai" đang đe dọa cộng đồng người bản xứ (người Tharus) đang sống chung quanh Lâm-Tỳ-Ni trên bình nguyên Terạ. Phong trào nầy là thuần túy địa phương nhưng Ấn độ không khỏi bất bình khi nhìn nó. Một chiến binh Népal theo Phật Giáo được tiếp xúc ở New Delhi cho biết, "Người Ấn Độ đã cho chúng tôi một hỗ trợ tinh thần." Đây là phát biểu của Shakun Sherchand, một cấp lãnh đạo của những tín đồ Phật Giáo Népal: "Lâm-Tỳ-Ni đã trở thành trung tâm của trò chơi lớn giữa Ấn Độ và Trung Quốc." Một trung tâm đầy sôi sục trong đó đang gặp nhau những tu sỹ, những người làm áp phe, những chính trị gia, binh lính bản địa, và bọn chỉ điểm đủ loại.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.