Hôm nay,  

Khi Công Lý Bất Minh

14/12/201300:00:00(Xem: 4854)
Chủ Nhật vừa qua 8 tháng 12 năm 2013 đài truyền hình CNN có cho chiếu một phóng sự với nhan đề “An Unreal Dream, The Michael Morton Story”, xin tạm dịch là “Câu chuyện của Micheal Morton, một ước mơ không tưởng”. Đó là một phóng sự hấp dẫn, ly kỳ tả lại cuộc đời “xui xẻo” nhưng đầy tình tiết éo le của Michael Morton.

Câu chuyện xảy ra cách đây hơn 27 năm tại một nơi gần thành phố Austin, Texas. Ngày 12 tháng 8 năm 1986, nhân dịp sinh nhật lần thứ 32 của mình và cũng là ngày đánh dấu sự bình phục hoàn toàn của cậu con trai lên 3 tuổi sau một trận mổ tim nguy hiểm, Michael dẫn vợ con đi ăn tối tại một nhà hàng gần nhà. Không có một bữa ăn tối nào có ý nghĩa và “tình tứ” hơn đêm hôm đó với cặp vợ chồng Morton. Anh ta cảm thấy mình may mắn và hạnh phúc nhất trên đời.

Sáng hôm sau trong lúc Michael đang ở sở làm thì người ta khám phá ra bà vợ anh ta là Christine Morton bị ai đó giết chết ngay trong phòng ngủ của mình, tại căn nhà của họ ở ngoại ô Austin, Texas. Sau khi khám phá ra án mạng, công tố viên buộc tội Michael là kẻ giết vợ.

Họ viện dẫn lý do ra sao?

Công tố viên với giọng nói đầy xúc động và gần như rơi lệ, trình bày trước bồi thẩm đoàn là họ đã tìm thấy một mảnh giấy để lại trên bàn trong buồng tắm do Michael viết cho bà vợ với lời lẽ “Rất tiếc, đêm qua em từ chối làm tình với anh, nhưng anh vẫn yêu em”. Công tố viên lý luận rằng vì việc trên mà Michael nổi “tam bành, giận điên lên” rồi đánh vợ đến chết. Họ còn lý luận rằng kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy rằng bà Christine chết vào khoảng 1:30 sáng, căn cứ vào những thức ăn có trong bụng của bà. Công tố viên cho là thời gian đó ông Michael còn có mặt tại nhà. Tuy nhiên người thẩm định y khoa cho rằng kết quả của việc thử nghiệm thức ăn trong bụng không phải là một “kết luận có khoa học”. Cũng trong phiên xử nầy, chuyên viên về máu của tiểu bang (state serologist) trưng ra các bằng chứng về phe với công tố viên cho rằng các dấu vết tinh trùng để lại trên tấm drap giường không phải là do từ một cuộc làm tình có đồng thuận, mà ai đó đã tự “thỏa mãn”. Công tố viên cho rằng sau khi giết vợ, anh Michael tự “thỏa mãn” mình bên xác chết không hồn của người vợ.

Khi công tố viên quyết định không cho gọi người điều tra viên chính ra làm nhân chứng, thì phe biện hộ thấy có cái gì đó khả nghi. Họ cho rằng bên công tố viên đang giấu giếm tang chứng. Nhưng khi phe biện hộ phản bác với quan tòa, phe công tố viên lại bảo đảm trước tòa rằng tất cả các tang chứng đã được cung cấp đầy đủ cho bên biện hộ “như luật định”. Không có nhân chứng, không có tang chứng rõ ràng trên hiện trường, và với cách lý luận trên, với sự bất cẩn của toà án, cộng với việc họ không tìm ra nghi can nào khác, công tố viên và bồi thẩm đoàn đã vội vã quy tội cho ông Morton giết vợ, vì bà ta không chịu “ làm tình trong ngày sinh nhật của mình”. Sau khi tuyên án, một đại diện cho bồi thẩm đoàn tuyên bố với báo chí là “chúng tôi xem đây là việc đem lại công lý cho Christine và chúng tôi cảm thấy đang làm một việc rất đúng”.

Khi xảy ra nội vụ, cậu con trai 3 tuổi lúc đó đã chứng kiến và kể lại chi tiết rất rành rẽ với bà ngoại và người thân rằng cậu ta đã thấy một ông có râu ria, trông rất đáng sợ, giết Mommy, chứ lúc đó Daddy không có ở nhà. Ngoài ra, cảnh sát cũng đã từng làm cuộc điều tra và phỏng vấn các hàng xóm của gia đình Morton và được họ kể lại họ có thấy một chiếc xe Van màu xanh thường hay đậu sau nhà ông Michael Morton, và sau đó thấy một người chạy trốn ra khu vườn cây sau nhà. Hồ sơ cảnh sát còn ghi nhận thẻ Visa Card của bà Christine được tìm thấy đem xử dụng tại một tiệm vàng ở thành phố San Antonio. Và nhân viên cảnh sát San Antonio tuyên bố họ biết tên người đàn bà tìm cách xử dụng Visa ăn cắp nầy. Bà Christine Morton bị đánh đập đến chết trên giường, với một dụng cụ làm bằng gỗ. Một cái rổ đan bằng một loại mây và một cái cặp được tìm thấy bỏ trên thân xác của bà.

Khi cảnh sát đến hiện trường, người ta thấy các dấu vết trên tấm drap trải giường, mà sau nầy giảo nghiệm cho thấy là có tinh trùng. Ngày hôm sau cảnh sát cũng còn tìm thấy một cái khăn choàng cổ dính đầy máu tại một công trường xây cất cách xa nhà ông Morton độ 100 yards. Nhưng theo luật sư biện hộ cho ông Morton, tất cả các tang chứng nầy không được cung cấp cho họ ở vào thời điểm của cuộc xử án.
resized-michael-morton-y
Michael Morton.

Ngày 17 tháng 2 năm 1989, Ông Michael Morton lãnh án tù chung thân

Dĩ nhiên là ông Morton cho rằng mình vô tội. Và ông luôn giữ vững lập trường nầy, dù trong hoàn cảnh nào. Ông ta cho rằng có kẻ nào đó đột nhập vào nhà ông sáng ngày 13 tháng 8, năm 1986, sau khi ông ta rời nhà đi làm. Các người làm chung ở sở khai lại lúc đó ông ta có đi trễ, song không tỏ ra có cử chỉ gì khả nghi của một kẻ giết người. Ngay sau khi bị lãnh án tù chung thân, ông Morton nạp đơn xin kháng án ngay, nhưng bị từ chối.

Năm 1990 ông ta xin điều tra lại vụ thử nghiệm DNA trên tấm drap trải giường. Nhưng rồi cuộc thử nghiệm cho thấy rằng DNA trên trên tấm drap trùng với DNA của ông ta. Việc nầy cũng dể hiểu, vì đó là tấm drap trải giường mà vợ chồng ông cùng xài chung.

Vào năm 2005, tổ chức Innocence Project và tổ hợp Luật Sư Raley & Bowick tại Houston đệ trình một kiến nghị xin thử thêm DNA trên các tang vật đã thu thập tại hiện trường. Nhưng Biện Lý của Williamson County bác đơn. Sau đó toà án cho phép làm một vài thử nghiệm DNA khác nhưng rồi kết quả cũng không đem lại thuận lợi cho ông Morton vì đa số các tang vật lấy ra từ trên giường không loại trừ ông ta là thủ phạm.

Ngày 30 tháng 6 năm 2011 cơ quan Orchid Cellmark báo cáo rằng cuộc khảo nghiệm cái khăn choàng cổ cho thấy trong đó có DNA và tóc của bà Christine Morton và DNA của một người đàn ông nào đó. Sau đó người ta đem DNA của người đàn ông đó chạy trên CODIS (Combined DNA Index System) databank và họ tìm ra đó chính là DNA của tên Mark Norwood, một tội phạm từ California và đã gây ra tội ác ở Texas. Anh ta đã sống tại Texas đúng vào thời điểm bà Christine Morton bị giết chết. Các luật sư biện hộ cho ông Morton còn khám phá ra rằng tóc của Norwood được tìm thấy tại nơi một nạn nhân khác bị giết cũng tại Texas. Đó là bà Debra Masters Baker bị giết khoảng hai năm sau khi bà Morton chết, lúc ông Morton đang nằm trong tù. Hai nạn nhân chết đều giống nhau – bị đánh đập cho đến chết - và cả hai đều xảy ra trong phòng ngủ của họ.

Trong khi bàn cãi về kết quả DNA và xem lại các hồ sơ điều tra khác, các luật sư của ông Morton đã chứng minh được sự vô tội của ông. Ông Michael Morton được trả tự do ngày 4 tháng 10 năm 2011, sau khi đã ở tù một cách oan uổng gần 25 năm. Ngày 19 tháng 12 năm đó ông ta được tuyên bố hoàn toàn vô tội. Ông ta được tiểu bang bồi thường gần 2 triệu đô la.

Dĩ nhiên Mark Norwood sau đó bị kết án tù chung thân vì đã giết bà Christine Morton và bà Debra Masters Baker.

Nhưng chuyện không ngừng ở đây. Với sự yêu cầu của các luật sư của ông Morton, Tối Cao Pháp Viện Texas ra lịnh điều tra thêm. Vào tháng Tư năm 2013 một quan toà đi đến kết luận rằng ông Biện Lý Ken Anderson của County Williamson lúc xảy ra vụ án bà Christine Morton (sau nầy ông đã trở thành một thẩm phán) phải bị kết tội hình sự vì đã cố tình ém nhẹm tang chứng. Ông tòa Anderson nầy sau đó cũng xin từ chức vào tháng 9 năm 2013. Vào ngày 8 tháng 11 năm nay, ông Anderson bị lãnh án tù 10 ngày và xin chấp nhận không hành nghề luật nữa vì đã làm sai trái để cho ông Michael Morton phải ở tù oan 24 năm, 7 tháng, và 11 ngày!

Cũng vì trường hợp của ông Morton mà mới đây Thống Đốc tiểu bang Texas là Rick Perry vừa mới ký một đạo luật mang tên là Michael Morton Act, bắt buộc các công tố viên phải cung cấp các bằng chứng cho bên luật sư biện hộ, nếu có sự yêu cầu của bị cáo, trong các trường hợp về tội hình sự,mà không cần sự cho phép của tòa. Thống Đốc Perry tuyên bố rằng luật mới nầy sẽ tạo ra công bình hơn, vì làm giảm đi xác xuất của các việc buộc tội oan.

Ông Morton tâm sự rằng khi vào tù đứa con trai mới có ba tuổi. Cậu ta sau đó có vào tù thăm ông ta một thời gian. Khi lớn lên cậu con cảm thấy xấu hổ vì có một người cha giết mẹ. Anh ta được một bà dì đem về nuôi, rồi anh ta quyết định đổi tên của mình để quên đi cái quá khứ đau thương của dòng họ Morton. Anh ta lấy họ của người dượng đang nuôi mình và “‘đoạn tuyệt” với người cha ruột, không thèm đi thăm ông ta nữa. Trong cuộc phỏng vấn với CNN, ông Morton tâm sự rằng, ông ta có thể chịu đựng mọi đau khổ, bất công, tù tội và tỏ ra mình rất cứng cỏi với đời. Nhưng khi nghe tin đứa con trai từ bỏ mình và xin đổi họ, ông ta nghe đau cả tâm can và thấy mình khổ tâm, xúc động đến muốn khóc.

Vì biết rằng mình vô tội, có một ngày ông ta sẽ chứng minh được việc đó. Những ngày dài trong tù đã làm ông suy nghĩ nhiều về nhân quả, hận thù và việc phải làm để cho các người hại ông phải trả. Nhưng rồi ông cũng tìm được bình an trong niềm tin về Chúa. Ông ta tuyên bố cảm ơn Thượng Đế là ông ta không bị án tử hình, để còn có ngày ra tù như hôm nay. Nên nhớ là Texas là tiểu bang có nhiều án tử hình và hành quyết nhiều tử tội nhất nước Mỹ.

Bây giờ thì cha con lại “đoàn tụ” thương yêu nhau. Cậu con Eric bây giờ đã thành gia thất và ông Morton có một cháu gái kháu khỉnh, cũng đặt tên là Christine để tưởng nhớ bà nội. Nói về những nổi trôi trong cuộc đời của cha con anh, Eric Morton cho rằng “life has come to full circle”, xin tạm dịch là sau những thăng trầm “cuộc đời đã trở lại bình thường như xưa”.

Thật vậy, tình phụ tử giữa cha con anh đã được hàn gắn, gia đình anh bây giờ sum họp bên nhau như thuở ban đầu và yêu thương nhau hơn bao giờ hết!

Những tiến bộ vượt bực trong lãnh vực thử nghiệm DNA quả thật đã giúp cho nền Công lý Hoa Kỳ có nhiều cơ hội phục vụ quần chúng một cách công minh hơn nhiều quốc gia khác trên thế giới.

Cali, những ngày đông giá lạnh cuối năm 2013

Võ Phú Viên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.