Hôm nay,  

Lửa Ấm Mùa Đông

28/12/201300:00:00(Xem: 4356)
"Tại sao người Việt lại đánh nhau với người Việt?" Lòng tôi giận lắm và lớn tiếng hỏi "Mấy anh có ngon dám ra ngoài Hong Kong đánh nhau không! Anh hùng mà!" ai nấy đều cúi đầu xuống thì thầm với nhau "đã là cướp rồi còn gì là anh hùng nữa đây." Tôi bật cười, nhìn những khuôn mặt bụi đời, dường như không ai muốn nhìn ai. Tôi bắt đầu đi gom nhặt lại những vũ khí đã quăng: dao, búa, xích sắt, côn… và nhìn chung quanh còn lại mười mấy người, mỗi người một góc đứng ngồi cách khoảng. Từng người một tôi khẽ vỗ vai và gom anh em lại một góc. Nhìn những đôi mắt cô đơn, tuyệt vọng, lòng tôi thấy sao mến thương quá những tâm hồn đã bị tan vỡ, bỏ nước vượt biển tìm tự do mà nay lại dính vào xã hội đen, tương lai mịt mù. Từng người một tôi nhìn thật kỹ thấy thương quá, những vết sẹo trên mặt trên tay, những tay "Anh chị" không sợ trời không sợ đất mà giờ đây ngoan ngoãn ngồi yên. Tôi thì thầm nói với Chúa "Mời Ngài, xin mời Ngài đến…"

"CHÚA ở gần những người có tấm lòng tan vỡ; Ngài cứu giúp những ai bị tan nát tâm linh."

Những luồng gió không còn lạnh buốt nữa chúng tôi đã xúm xích ngồi xát lại với nhau, chuyền cho nhau hơi ấm. Lượm gỗ chất lên cái lò ai để gần đó, bập bùng lửa cháy lên xua đi bóng tối thổi đi cái cái lạnh của mùa Đông. Lửa đốt lên tôi thấy những khuôn mặt thật đẹp, những cặp mắt còn đỏ hoe, rươm rướm nước mắt nhưng nụ cười rạng rỡ vẫn còn nỡ trên môi. "Mục sư ơi! Khỏi cần nói với chúng con tội lỗi là gì? Toàn là sư phụ và đại ca ở đây không hà! Nhưng làm sao để có được sự bình an thật sự? Làm sao để thoát ra?" Những câu hỏi dồn dập đưa ra… tôi cười hihihi "rồi để từ từ mình sẽ cắt nghĩa nha …"

"Vì Chúa đã đến để tìm và cứu kẻ bị chết mất. Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, để ai tin Con ấy không bị chết mất nhưng có sự sống đời đời. Vì nếu miệng bạn xưng nhận Đức Chúa Jesus là Chúa, và lòng bạn tin rằng Đức Chúa Trời đã làm cho Ngài sống lại từ cõi chết, bạn sẽ được cứu."

Những người anh em không chạy giờ đây đều quì xuống cùng ăn năn xưng tội mình ra, tin nhận Cứu Chúa Giê-Xu. Phải Chúa đã chịu treo và chết trên thập giá vì chúng ta của chúng ta. Ngài đã trả giá và gánh thay tội lỗi cho cả thế gian. Ôi vui làm sao tiếng khóc tiếng cười rộn vang bầu trời Hong Kong.

Sân thượng Trại Jubilee, giờ đây sáng lên những khuôn mặt rạng rỡ tràn đầy hy vọng, Chúa của bình an đang hiện diện, tình thương và vui mừng ngập tràn. Mùa Đông năm đó, thật diệu kỳ "Du đảng Ba Miền" đã cùng nhau đạp đổ những bức tường ngăn cách. Những hố chia rẽ bị san bằng, phân biệt Nam Bắc Trung bây giờ không còn nữa, chỉ còn lại một tộc Việt, mà bao nhiêu ngàn năm qua ơn Trời vẫn ở trên đất nước Việt Nam. Chân bước ra khỏi trại lòng tôi hớn hở vui mừng, phải Chúa Bình an đã đến. Ngày Mừng Giáng Chúa Sinh sẽ và vẫn còn tiếp tục mãi mãi!
resized-muc-su-cao-h-tri
Hình hồ sơ thời tỵ nạn.

Sáng hôm sau tôi vui lắm tung tăng trở lại Trại Jubilee, vừa đi vừa nhớ lại lúc mới bắt đầu vào Trại, Tiếng Hong Kong không biết một chữ may là dân Hong Kong phần đông biết nói tiếng Anh. Hăng hái lắm vì biết chắc Chúa kêu tôi đi qua đây để giúp dân Tỵ nạn vừa bước vào cổng thì bị cảnh sát chận lại không cho vào, họ xí xô xí xào tiếng Quảng làm tôi chóng mặt luôn và cứ chận không cho tôi vào… lòng tôi bối rối tự hỏi Chúa ơi! Con đã bỏ nước Mỹ mua vé một chiều, đi giúp dân Tỵ nạn tới chỗ rồi mà không được vô? Lẩn quẩn trước cửa trại tình cờ đọc mấy tờ quảng cáo: Cần người Bảo quản (Maintenance man wanted) tôi gở tờ giấy liền, thầm nghĩ "chuyện nhỏ mà… bên Mỹ đã từng làm maintenance cho YMCA trên 2 năm…" Cầm tờ giấy bước qua cổng tới văn phòng trưởng trại hí hửng lắm… gặp ông Trại trưởng đưa tờ giấy ông nhìn tôi cười lớn và nói OK đưa tay bắt và đưa tôi tờ giấy chỉ có một hàng chữ "Maintenance all W.C." "Chuyện nhỏ" bốc điện thoại lên ông kêu người hướng dẫn tôi đi tham quan "cầu tiêu" mỗi tầng lầu đều có cầu tiêu dành cho 600 tù nhân nhưng bây giờ chỉ có 5 ngàn tỵ nạn dùng thôi, vì không biết cách ngồi nên cả hệ thống của trại bị tắt nghẽn, từ mặt sàn xi-măng dầy lên cao hơn gang tay… người ta phải lấy gạch quăng vào để đi cho tiện. Mùi hôi thối phất lên nồng nặc, quá nặng mùi, tôi rợn người lợm giọng muốn ói, tôi muốn bỏ đi về Mỹ liền cho rồi… ghê quá, nhưng tiếng Chúa nhỏ nhẹ nói:

"Như Con Người đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người."

Phải! Tôi phải theo gương Chúa. Bắt đầu từ nay mỗi ngày trên tám tiếng tôi quét dọn và sửa chữa từng cầu tiêu một và làm thêm trên 300 cầu lộ thiên ngoài bờ biển. Chúng tôi kêu gọi bạn bè trên thế giới và chính người Tỵ nạn trong trại tình nguyện làm việc, trên 400 người đã thay phiên nhau dọn dẹp. Về đêm tôi dành thì giờ đi từng gia đình nói về Chúa. Đi tới đâu ai cũng chỉ chỏ cười cười và ngưng khi tôi tới gần, thật khó hiểu. Ròng rã 3 tháng trôi qua, mỗi cái cầu tiêu đều sạch, mặc dầu không còn nặng mùi nữa nhưng cái tên của tôi càng ngày càng nổi tiếng và càng có mùi hơn vì tôi là người Việt từ Mỹ nên được đặt tên mới: "Mục sư Cầu Tiêu". Tôi chỉ biết cười trừ, đôi lúc cũng hơi nản. Lòng tôi chán chường không phải vì dọn cầu tiêu nhưng vì việc làm đó nên không ai chịu theo Chúa. Họ nói Mục sư không nên làm những việc thấp hèn như vậy! Buồn quá! Tôi quyết định về Mỹ! Thầm nói với Chúa: Chúa ơi! Có lẽ con sai… nghe lầm tiếng Chúa! Chúa coi kìa không một người tin từ khi con dọn cầu tiêu… Con sai rồi Chúa ơi! Nếu tới mai con không thấy ai chịu theo Chúa thì con sẽ về Mỹ! đột nhiên tay ai đập trên vai tôi nhè nhẹ, quay lại thấy một cụ già… "Sao đứng đây khóc với ai đấy?" Tôi mỉm cười cố gắng nén dòng nước mắt lại và nói về Chúa cho Cụ nhưng lòng tôi biết chỉ là "Đờn gảy tai trâu" vài phút sao Cụ nói chờ ở đó. Cụ đi vài phút và quay lại với 16 người và nói "Hãy cầu nguyên cho gia đình chúng tôi…" Từ phút đó trở đi thắm thoát gần mười năm vút qua sống ở Hong Kong. Tôi biết chắc Chúa vẫn còn và luôn luôn thương xót người hư mất và dân tộc Việt Nam.

Rất mong gặp lại các bạn cũ và Kính mời Quí Đồng Hương ghé thăm, mỗi Chúa Nhật 3PM hay thứ Năm 7PM. Tôi đang sinh hoạt Tại Hội Thánh Little Sài Gòn 14642 Bushard Street Westminster, CA 92683. ĐT: (714) 657-9726 Mục sư Cao Hữu Trí.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Do đó, chỉ khi nào người dân được quyền trực tiếp chọn Lãnh đạo qua bầu cử tự do, công bằng và dân chủ thì khi ấy những kẻ bất tài, có thành tích xấu, hay chỉ biết thu vét cho đầy túi tham, lợi ích nhóm hay làm tay sai cho Ngoại bang mới bị loại khỏi đội ngũ cầm quyền. Ngược lại, nếu vẫn tiếp tục chọn người theo thông lệ “đảng cử dân bầu” hay “đảng chọn, cán bộ bỏ phiếu” thì có trăm năm, nhân dân Việt Nam vẫn chưa tìm thấy ánh sáng ở cuối đường hầm.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất tự do.
Thây xác trưng ra đó / Còn chưa đủ thối inh? / Mua chi thêm bầy ngựa / Cứt vung cả Ba Đình! - Trần Bang
Tôi sinh ra trong một cái xóm rất nghèo, và (tất nhiên) rất đông trẻ nhỏ. Cùng lứa với tôi, có cả tá nhi đồng mà tên gọi đều bắt đầu bằng chữ út: Út lé, Út lác, Út lồi, Út lùn, Út hô, Út còi, Út ghẻ, Út mập, Út sún, Út sứt, Út méo, Út hô, Út đen, Út ruồi, Út xẹo, Út trọc … Cứ theo cách thấy mặt đặt tên như vậy, người ta có thể nhận dạng và biết được thứ tự của đứa bé trong gia đình mà khỏi phải giới thiệu (lôi thôi) kiểu cách, theo kiểu Âu Tây: – Còn đây là thằng út, nó tên là Út rỗ. Vùa lọt lòng thì cháu rơi ngay vào một cái … thùng đinh! Riêng trường hợp của tôi thì hơi (bị) khác. Tôi tên Út khùng. Lý do: khi mới chập chững biết đi, tôi té giếng. Khi tìm ra con, nắm tóc kéo lên, thấy thằng nhỏ mặt mày tím ngắt, chân tay xụi lơ, bụng chương xình, má tôi chỉ kêu lên được một tiếng “rồi” và lăn ra bất tỉnh.
Chúng ta thấy gì qua những cuộc biểu tình và bạo lực tiếp theo sau cái chết của người thanh niên da đen George Floyd bị người cảnh sát da trắng Derek Chavin dùng đầu gối đè cổ nghẹt thở chiều ngày 25-5-2020 tại thành phố Minneapolis, bang Minnesota? Hàng trăm cánh sát dã chiến với trang bị tác chiến và măt nạ chống khói độc đối đầu với hàng ngàn người biểu tình đòi công lý cho George Floyd và đòi được sống bình đẳng với người Mỹ da trắng. Đó là cuộc đấu tranh chính đáng chống lại áp bức, chống lại bất công của một xã hội đa chủng đa văn hóa như nước Mỹ.
Có vài kinh điển đã nói đến chiến tranh và dùng bạo lực để trừng phạt, nhưng tìm cách biến đổi quan điểm thông thường của thế gian là bạo lực cũng đôi khi cần thiết bằng cách là đối thoại với một lý tưởng không dùng bạo lực. Về điểm này, Phật có nói đến mình như một người xuất thân từ giai cấp lãnh chuá. Trong hai bài pháp ngắn, Phật có bình luận về hai cuộc chiến xảy ra khi ác vương A Xà Thế, Ajàtasattu, tấn công vào lãnh thỗ của chú mình là vua Ba Tư Nặc, Pasenadi, cũng là một tín đồ của Ngài, và được coi như là người luôn làm việc thiện. Trong cuộc chiến đấu tiên, vua Pasenadi bị đánh bại và rút lui. Đức Phật có suy nghĩ về sự bất hạnh này và ngài nói rằng: “Chiến thắng gieo thêm hận thù, người bại trận sống trong đau khổ. Hạnh phúc thay cho một đời sống an hoà, từ bỏ đưọc mọi chuyện thắng thua. Điều này cho thấy rõ rằng sự chinh phục đem lại bi đát cho người thua cuộc mà chỉ đưa tới thù hận và dường như chỉ muốn chinh phục lại kẻ chinh phục.”
Chiều ngày 29/5 sau phiên xử phúc thẩm, một người dân ở xã Bình Phước, ông Lương Hữu Phước, đã trở lại toà án và nhảy từ lầu hai của toà để tự sát. Hình ảnh ông nằm chết, co quắp ngay trước sân toà nói lên nỗi tuyệt vọng, sự cô đơn cùng cực của người dân VN trước các phán quyết của toà án. Tôi chạnh nhớ đến câu nói của thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh trong phiên phúc thẩm của anh: “một lũ bất nhân đã làm ra phiên toà bất công”.
Ôi, tưởng gì chớ tật xấu của đàn ông (nói chung) và đàn ông Việt Nam (nói riêng) thì e đám đàn bà phải càm ràm cho tới… chết – hay ngược lại. Không mắc mớ gì mà tôi lại xía vô mấy chuyện lằng nhằng (và bà rằn) cỡ đó. Nhưng riêng hai chữ “cái làn” trong câu nói (“Lắm đấng ông chồng vui vẻ xách làn đi chợ…”) của Phạm Thị Hoài thì khiến tôi bần thần, cả buổi! Năm 1954, cái làn (cùng nhiều cái khác: cái bàn là, cái bát, cái cốc, cái ô, cái môi, cái thìa…) đã theo chân mẹ tôi di cư từ Bắc vào Nam. Cuộc chung sống giữa cái bàn là với cái bàn ủi, cái bát với cái chén, cái cốc với cái ly, cái ô với cái dù, cái môi với cái vá, cái thìa với cái muỗm… tuy không toàn hảo nhưng (tương đối) thuận thảo và tốt đẹp.
Hoa phượng được Nhất Tuấn gọi là hoa học trò vì thuở đó hầu như ngôi trường nào cũng trồng cây phượng trong sân trường. Khi phượng đơm hoa báo hiệu cho mùa Hè cũng là thời điểm chia tay sau niên học. Để lưu niệm, nữ sinh đóng tập Lưu Bút giấy pelure xen kẽ các sắc màu, trông thật nhã, ghi cảm nghĩ cho nhau… Ở lớp Đệ Tứ, không còn học chung nhau vì lên lớp Đệ Tam theo ban A, B, C và lớp Đệ Nhất là thời điểm chia tay vĩnh viễn, tập Lưu Bút dày hơn, chia sẻ, tâm tình… của tuổi học trò. Hầu như nam sinh không có Lưu Bút, chỉ được xía phần, dù có tinh nghịch nhưng phải viết đứng đắn, lịch sự.
Trong chị Thanh chỉ có một tấm lòng, chứ tuyệt nhiên không có “những bức tường lòng” phân cách Bắc/Trung/Nam – như rất nhiều người Việt khác. Tình cảm của chị tinh khiết, trong veo, và tươi mát tựa như dòng nước của một con suối nhỏ – róc rách, len lách – khắp mọi miền của tổ quốc thân yêu. Bởi thế, dù không biết chính xác chị được chôn cất nơi nao tôi vẫn tin rằng ở bất cứ đâu thì đất nước này cũng đều hân hoan ấp ủ hình hài của người thơ đa cảm, tài hoa, và chuân truyên nhất của dân tộc. Vĩnh biệt Nguyễn Thị Hoài Thanh. Em mong chị mãi mãi được an nghỉ trong an lành và thanh thản!


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.