Hôm nay,  

Lửa Ấm Mùa Đông

28/12/201300:00:00(Xem: 4387)
"Tại sao người Việt lại đánh nhau với người Việt?" Lòng tôi giận lắm và lớn tiếng hỏi "Mấy anh có ngon dám ra ngoài Hong Kong đánh nhau không! Anh hùng mà!" ai nấy đều cúi đầu xuống thì thầm với nhau "đã là cướp rồi còn gì là anh hùng nữa đây." Tôi bật cười, nhìn những khuôn mặt bụi đời, dường như không ai muốn nhìn ai. Tôi bắt đầu đi gom nhặt lại những vũ khí đã quăng: dao, búa, xích sắt, côn… và nhìn chung quanh còn lại mười mấy người, mỗi người một góc đứng ngồi cách khoảng. Từng người một tôi khẽ vỗ vai và gom anh em lại một góc. Nhìn những đôi mắt cô đơn, tuyệt vọng, lòng tôi thấy sao mến thương quá những tâm hồn đã bị tan vỡ, bỏ nước vượt biển tìm tự do mà nay lại dính vào xã hội đen, tương lai mịt mù. Từng người một tôi nhìn thật kỹ thấy thương quá, những vết sẹo trên mặt trên tay, những tay "Anh chị" không sợ trời không sợ đất mà giờ đây ngoan ngoãn ngồi yên. Tôi thì thầm nói với Chúa "Mời Ngài, xin mời Ngài đến…"

"CHÚA ở gần những người có tấm lòng tan vỡ; Ngài cứu giúp những ai bị tan nát tâm linh."

Những luồng gió không còn lạnh buốt nữa chúng tôi đã xúm xích ngồi xát lại với nhau, chuyền cho nhau hơi ấm. Lượm gỗ chất lên cái lò ai để gần đó, bập bùng lửa cháy lên xua đi bóng tối thổi đi cái cái lạnh của mùa Đông. Lửa đốt lên tôi thấy những khuôn mặt thật đẹp, những cặp mắt còn đỏ hoe, rươm rướm nước mắt nhưng nụ cười rạng rỡ vẫn còn nỡ trên môi. "Mục sư ơi! Khỏi cần nói với chúng con tội lỗi là gì? Toàn là sư phụ và đại ca ở đây không hà! Nhưng làm sao để có được sự bình an thật sự? Làm sao để thoát ra?" Những câu hỏi dồn dập đưa ra… tôi cười hihihi "rồi để từ từ mình sẽ cắt nghĩa nha …"

"Vì Chúa đã đến để tìm và cứu kẻ bị chết mất. Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, để ai tin Con ấy không bị chết mất nhưng có sự sống đời đời. Vì nếu miệng bạn xưng nhận Đức Chúa Jesus là Chúa, và lòng bạn tin rằng Đức Chúa Trời đã làm cho Ngài sống lại từ cõi chết, bạn sẽ được cứu."

Những người anh em không chạy giờ đây đều quì xuống cùng ăn năn xưng tội mình ra, tin nhận Cứu Chúa Giê-Xu. Phải Chúa đã chịu treo và chết trên thập giá vì chúng ta của chúng ta. Ngài đã trả giá và gánh thay tội lỗi cho cả thế gian. Ôi vui làm sao tiếng khóc tiếng cười rộn vang bầu trời Hong Kong.

Sân thượng Trại Jubilee, giờ đây sáng lên những khuôn mặt rạng rỡ tràn đầy hy vọng, Chúa của bình an đang hiện diện, tình thương và vui mừng ngập tràn. Mùa Đông năm đó, thật diệu kỳ "Du đảng Ba Miền" đã cùng nhau đạp đổ những bức tường ngăn cách. Những hố chia rẽ bị san bằng, phân biệt Nam Bắc Trung bây giờ không còn nữa, chỉ còn lại một tộc Việt, mà bao nhiêu ngàn năm qua ơn Trời vẫn ở trên đất nước Việt Nam. Chân bước ra khỏi trại lòng tôi hớn hở vui mừng, phải Chúa Bình an đã đến. Ngày Mừng Giáng Chúa Sinh sẽ và vẫn còn tiếp tục mãi mãi!
resized-muc-su-cao-h-tri
Hình hồ sơ thời tỵ nạn.

Sáng hôm sau tôi vui lắm tung tăng trở lại Trại Jubilee, vừa đi vừa nhớ lại lúc mới bắt đầu vào Trại, Tiếng Hong Kong không biết một chữ may là dân Hong Kong phần đông biết nói tiếng Anh. Hăng hái lắm vì biết chắc Chúa kêu tôi đi qua đây để giúp dân Tỵ nạn vừa bước vào cổng thì bị cảnh sát chận lại không cho vào, họ xí xô xí xào tiếng Quảng làm tôi chóng mặt luôn và cứ chận không cho tôi vào… lòng tôi bối rối tự hỏi Chúa ơi! Con đã bỏ nước Mỹ mua vé một chiều, đi giúp dân Tỵ nạn tới chỗ rồi mà không được vô? Lẩn quẩn trước cửa trại tình cờ đọc mấy tờ quảng cáo: Cần người Bảo quản (Maintenance man wanted) tôi gở tờ giấy liền, thầm nghĩ "chuyện nhỏ mà… bên Mỹ đã từng làm maintenance cho YMCA trên 2 năm…" Cầm tờ giấy bước qua cổng tới văn phòng trưởng trại hí hửng lắm… gặp ông Trại trưởng đưa tờ giấy ông nhìn tôi cười lớn và nói OK đưa tay bắt và đưa tôi tờ giấy chỉ có một hàng chữ "Maintenance all W.C." "Chuyện nhỏ" bốc điện thoại lên ông kêu người hướng dẫn tôi đi tham quan "cầu tiêu" mỗi tầng lầu đều có cầu tiêu dành cho 600 tù nhân nhưng bây giờ chỉ có 5 ngàn tỵ nạn dùng thôi, vì không biết cách ngồi nên cả hệ thống của trại bị tắt nghẽn, từ mặt sàn xi-măng dầy lên cao hơn gang tay… người ta phải lấy gạch quăng vào để đi cho tiện. Mùi hôi thối phất lên nồng nặc, quá nặng mùi, tôi rợn người lợm giọng muốn ói, tôi muốn bỏ đi về Mỹ liền cho rồi… ghê quá, nhưng tiếng Chúa nhỏ nhẹ nói:

"Như Con Người đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người."

Phải! Tôi phải theo gương Chúa. Bắt đầu từ nay mỗi ngày trên tám tiếng tôi quét dọn và sửa chữa từng cầu tiêu một và làm thêm trên 300 cầu lộ thiên ngoài bờ biển. Chúng tôi kêu gọi bạn bè trên thế giới và chính người Tỵ nạn trong trại tình nguyện làm việc, trên 400 người đã thay phiên nhau dọn dẹp. Về đêm tôi dành thì giờ đi từng gia đình nói về Chúa. Đi tới đâu ai cũng chỉ chỏ cười cười và ngưng khi tôi tới gần, thật khó hiểu. Ròng rã 3 tháng trôi qua, mỗi cái cầu tiêu đều sạch, mặc dầu không còn nặng mùi nữa nhưng cái tên của tôi càng ngày càng nổi tiếng và càng có mùi hơn vì tôi là người Việt từ Mỹ nên được đặt tên mới: "Mục sư Cầu Tiêu". Tôi chỉ biết cười trừ, đôi lúc cũng hơi nản. Lòng tôi chán chường không phải vì dọn cầu tiêu nhưng vì việc làm đó nên không ai chịu theo Chúa. Họ nói Mục sư không nên làm những việc thấp hèn như vậy! Buồn quá! Tôi quyết định về Mỹ! Thầm nói với Chúa: Chúa ơi! Có lẽ con sai… nghe lầm tiếng Chúa! Chúa coi kìa không một người tin từ khi con dọn cầu tiêu… Con sai rồi Chúa ơi! Nếu tới mai con không thấy ai chịu theo Chúa thì con sẽ về Mỹ! đột nhiên tay ai đập trên vai tôi nhè nhẹ, quay lại thấy một cụ già… "Sao đứng đây khóc với ai đấy?" Tôi mỉm cười cố gắng nén dòng nước mắt lại và nói về Chúa cho Cụ nhưng lòng tôi biết chỉ là "Đờn gảy tai trâu" vài phút sao Cụ nói chờ ở đó. Cụ đi vài phút và quay lại với 16 người và nói "Hãy cầu nguyên cho gia đình chúng tôi…" Từ phút đó trở đi thắm thoát gần mười năm vút qua sống ở Hong Kong. Tôi biết chắc Chúa vẫn còn và luôn luôn thương xót người hư mất và dân tộc Việt Nam.

Rất mong gặp lại các bạn cũ và Kính mời Quí Đồng Hương ghé thăm, mỗi Chúa Nhật 3PM hay thứ Năm 7PM. Tôi đang sinh hoạt Tại Hội Thánh Little Sài Gòn 14642 Bushard Street Westminster, CA 92683. ĐT: (714) 657-9726 Mục sư Cao Hữu Trí.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày 30 tháng 4 năm 1975, kết thúc chiến tranh Việt Nam và bắt đầu cuộc di cư tị nạn Việt Nam, tôi muốn chia sẻ một vài lời về sự kiên cường của chúng ta là người Mỹ gốc Việt, là người tị nạn và con cháu của người tị nạn. Cảm giác thế nào khi nền tảng của thế giới chúng ta đang sống bị rung chuyển đến mức chúng ta không còn biết mình đang đứng ở đâu hay làm thế nào để tiến về phía trước? Trước năm 2020, trước đại dịch COVID-19, chỉ những người đã chịu những bi kịch lớn mới có thể trả lời câu hỏi này. Bây giờ tất cả chúng ta đang sống với nó.
Nhưng vấn đề không đơn giản như họ nghĩ để buộc người miền Nam phải làm theo vì không còn lựa chọn nào khác. Trong 45 năm qua, ai cũng biết nhà nước CSVN đã đối xử kỳ thị và bất xứng với nhân dân miền Nam trên nhiều lĩnh vực. Từ công ăn việc làm đến bảo vệ sức khỏe, di trú và giáo dục, lý lịch cá nhân của người miền Nam đã bị “phanh thây xẻ thịt” đến 3 đời (Ông bà, cha mẹ, anh em) để moi xét, hạch hỏi và làm tiền.
Trong thực tế, một người tận mắt chứng kiến cảnh chiến xa CS chạy vào dinh Độc Lập ngày 30-4-1975, kể lại đầu đuôi câu chuyện cho người viết bài nầy rất rõ ràng và hoàn toàn khác với sách vở CS đã viết. Đó là giáo sư tiến sĩ Đỗ Văn Thành, hiện nay đang giảng dạy tại đại học Oslo, Na Uy (Norway).
Đến nay, đối với đồng bào ở trong nước và cộng đồng người Việt ở hải ngoại kể từ 30-4-1975, sau 45 năm, những ngày ấy, những năm tháng ấy, không bom đạn trên đầu, nhưng sao trong lòng của mỗi chúng ta cứ lo âu, xao xuyến, sục sôi những chuyển đổi. Không sục sôi chuyển đổi sao được, những tiến bộ Khoa học Công nghệ 4.0, nhất là sự tiến bộ của điện toán, của hệ thống truyền thông, thông tin vượt tất cả mọi kiểm soát, vượt mọi tường lửa, thế giới phô bày trước mắt loài người, trước mặt 90 triệu đồng bào Việt Nam, những cái hay cũng như những cái dỡ của nó một cách phũ phàng.
“Bà X khoảng bốn mươi tuổi, hiện đang sống với chồng và con gái trong một căn nhà do chính họ làm chủ, ở California. Bà nói thông thạo hai thứ tiếng: Anh và Việt. Phục sức giản dị, trông buồn bã và lo lắng, bà X tuy dè dặt nhưng hoàn toàn thành thật khi trả lời mọi câu hỏi được đặt ra. “Bà rời khỏi Việt Nam vào năm 1980, khi còn là một cô bé, cùng với chị và anh rể. Ghe bị cướp ba lần, trong khi lênh đênh trong vịnh Thái Lan. Chị bà X bị hãm hiếp ngay lần thứ nhất. Khi người anh của bà X xông vào cứu vợ, ông bị đập búa vào đầu và xô xuống biển. Lần thứ hai, mọi chuyện diễn tiến cũng gần như lần đầu. Riêng lần cuối, khi bỏ đi, đám hải tặc còn bắt theo theo mấy thiếu nữ trẻ nhất trên thuyền. Chị bà X là một trong những người này.
Tìm được ý nghĩa thực của phương trình từ năm 2012 nhưng không dám công bố vì còn kẹt một bí mật cuối cùng, loay hoay nghiên cứu, tìm tòi hàng năm không giải nổi. Nó nằm trong chữ C² (C bình phương) – bình phương tốc độ ánh sáng. Vật chất chỉ cần chuyển động nhanh bằng (C), tốc độ ánh sáng, là biến thành năng lượng rồi, còn sót cái gì để mà đòi bay nhanh hơn? – C+1 đã là dư. C nhân hai, nhân ba là dư quá lố, vậy mà ở đây còn dư kinh hồn hơn, là c bình phương lận – c nhân với c (186,282 x 186,282) nghĩa là khoảng 34,700,983,524 dặm/ giây!
Sau trận Phước Long 6/1/1975, Hoa Kỳ im lặng, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát Đình chiến bất lực, cuộc chiến đã đến hồi chấm dứt. Ngày 10/3/1975, Thị xã Ban Mê Thuột bị tấn công thất thủ sau hai ngày chống cự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, cao nguyên Trung phần lọt vào tay cộng sản. Ngày 8/3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Quảng Trị, Quảng Trị mất, rồi các tỉnh miền Trung lần lượt mất theo.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất hứa.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.