Hôm nay,  

Ngôi Đền Tĩnh Quốc Thần Xã

1/17/201400:00:00(View: 5996)
Từ tội phạm chiến tranh đến anh hùng liệt sĩ Nhật Bản...

Ngày 26 Tháng 12 vừa qua, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe lại gây tranh luận khi chính thức thăm viếng ngôi đền Tĩnh Quốc Thần Xã Yasukuni với tư cách Thủ tướng.

Trong năm 2013, ông đã viếng ngôi đền khi chưa nhậm chức Thủ tướng nên chỉ gây chú ý mà thôi. Lần này thì khác. Ngay lập tức, các chính quyền Trung Quốc và Nam Hàn đã phản đối hành động này. Sau đó tới lượt Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, rằng đó là một việc đáng tiếc.

Phản ứng của Hoa Kỳ mới là việc đáng khen, về tài tráo trở. Cách tường thuật và bình luận của truyền thông quốc tế là điều đáng cười khác, về tài ngớ ngẩn....

* * *

Theo tín ngưỡng Thần Đạo, người Nhật đã dựng lên cả chục vạn ngôi đền lớn nhỏ để thờ phụng thần linh và anh hùng liệt sĩ của họ. Nổi tiếng nhất, đền Yasukuni là do Thiên hoàng Minh Trị lập ra từ năm 1869 để ghi ơn liệt sĩ, đầu tiên là từ cuộc Nội chiến Mậu Thìn năm 1868-1869 khi Thiên hoàng mở ra thời tập quyền để canh tân xứ sở (chuyện Minh Trị Duy Tân) sau nhiều thế kỷ phân tranh giữa các Tướng quân hay Lãnh chúa.

Dân tộc nào cũng có nơi ghi nhận công lao những người đã xả thân bảo vệ Tổ quốc. Chính đáng hay không là ở định nghĩa của chữ "bảo vệ", theo thế thủ hay thế công, giữ nước, dựng nước, hay thậm chí cướp nước của người khác!

Định nghĩa cho chính đáng thì có chính nghĩa. Đó là cái thuật của chính trị hay cái tài của sử gia.

Trải qua 110 năm sau đó, chẳng mấy ai dị nghị về ngôi đền Tĩnh Quốc dù Nhật Bản nhiều lần ra quân tấn công các nước, nào Trung Quốc, Triều Tiên, Đại Nga, và Hoa Kỳ trong các cuộc chiến 1894, 1904, 1910, 1937, 1941.... Sự việc chỉ trở thành vấn đề từ năm 1978, khi đến Thần Xã được phép đón nhận linh vị của 14 nhân vật quân chính từng bị Toà án Tội ác Chiến tranh tại Đông Kinh truy tố và xử tử về trách nhiệm trong Đệ nhị Thế chiến.

Toà án này là cho Hoa Kỳ lập ra ngay sau khi đánh bại nước Nhật và có 126 "chánh phạm" (Class-A) bị ra toà về Tội ác chống Hoà bình. Sau đó chỉ vài tháng, cũng vì lý do chính trị trong Bộ Tư lệnh của Tướng Douglas MacArthur (giữa các nhân vật thiên tả ngả theo xã hội chủ nghĩa và cánh hữu chống cộng trước mối nguy cộng sản sau Thế chiến II), số chánh phạm được giảm xuống còn 14 người.

Tức là có 112 nhân vật cao cấp có thế lực của Thiên hoàng bại trận được Hoa Kỳ mặc nhiên ân xá. Khét tiếng trong số này có Kodama Yoshio, ông trùm của tổ chức tội ác nhưng có biệt tài truy lùng cộng sản. Hay Shoriki Matsutaro, tài phiệt truyền thông và thể thao, chủ nhân nhật báo số một của Nhật là Yomiuri Shimbun và sáng lập viên hệ thống Nippon Television Network. Hay Sasakawa Ryoichi, một tài phiệt và lãnh tụ cực hữu có thể làm các đại gia Trung Quốc bị mặc cảm về tài nghệ đầu tư và ảnh hưởng chính trị tại các nước Á Phi sau này...

Nhưng lẫy lừng nhất trong số người thoát nạn, có Nobusuke Kishi, về sau là kiến trúc sư của chiến lược hợp tác Nhật-Mỹ để bảo vệ Đông Á trước đà bành trướng của Liên Xô và Trung Cộng. Sau hai lần làm Thủ tướng Nhật từ 1957 đến 1960 với ảnh hưởng toả rộng tại Đông Nam Á, ông Kishi là người nghiên cứu dự án đưa linh vị 14 "chánh phạm" vào ngôi đền Yasukuni từ năm 1978, được hợp thức hoá vào năm 1979. Ngoài ra, Kishi còn là anh ruột của Thủ tướng Eisaku Sato, người đã đoạt Giải Nobel Hoà Bình năm 1974, và là ông ngoại của đương kim Thủ tướng Shinzo Abe.

* * *

Thật ra, sự co giãn của nền công lý hậu chiến hay Tòa án về Tội ác Chiến tranh của Nhật là một công trình hỗn hợp Mỹ-Nhật. Về phía Hoa Kỳ, vì nhu cầu của nước Mỹ, đây là một nỗ lực lưỡng đảng, của cả Tổng thống lẫn Quốc hội Dân Chủ và Cộng Hoà.

Nhưng quan trọng hơn vậy, về phía Nhật Bản, vì nhu cầu hòa giải thì ngay từ năm 1952, với đa số áp đảo, kể cả từ đảng Xã Hội - trừ đảng Cộng Sản, dĩ nhiên - Quốc hội Nhật đã biểu quyết nhiều đạo luật ân xá tội phạm thời chiến. Qua năm 1958, và với sự đồng ý của các đồng minh, tức là của Hoa Kỳ, mọi tội phạm kể cả loại B (Tội ác trong Chiến tranh), hay C (Tội ác chống Nhân loại) đều được các Tòa án địa phương giảm án.

Chẳng những vậy, từ năm 1959, tên tuổi của họ cũng được đưa vào đền thần xã ở mọi nơi mà không ai thấy phiền hà.

Suy ngẫm theo dòng thời gian và từ dưới lên thì sáu năm sau khi bại trận bằng hai quả bom nguyên tử và bị một nước chiến trắng cai trị bằng Hiến pháp và luật pháp, từ năm 1952, dân Nhật đã tự hoà giải. Họ lặng lẽ giảm án các tội phạm loại thấp (B và C) do toà án của họ lập ra theo chỉ thị của nước chiến thắng. Trong số này, có những kẻ thừa hành, có người bị tố oan, tố lầm mà cũng có loại gian ác đã ngược đãi tù binh, v.v....

Nhưng qua thể thức dân chủ, mọi người đều đánh chữ đại xá để xây dựng lại tương lai.

Câu chuyện chỉ đáng bàn là ở cấp trọng phạm, loại A, do ảnh hưởng của quốc tế trong Toà án Trung ương tại thủ đô Tokyo. Quốc tế khi đó là Hoa Kỳ.

Trước đà bành trướng của Cộng sản, Hoa Kỳ đã sớm nghĩ đến chuyện đại xá ngay từ năm 1948. Sau đó 30 năm, người Nhật mới nói đến việc ghi ơn các liệt sĩ khi đưa linh vị 14 chánh phạm vào đền Tĩnh Quốc. Nhưng ngôi đền không chỉ có 14 tội phạm đã bị xử tử mà còn nhiều người đã hy sinh cho Tổ quốc của họ.

* * *

Thiên hoàng Hirohito của Nhật đã từng thăm viếng đền Tĩnh Quốc nhưng sau 1978 thì thôi. Tới nay thì bốn Thủ tướng Nhật đã cúi lạy trước đền là Yasuhoro Nakasone (Thủ tướng từ 1982 đến 1987), Ryutaro Hashimoto (từ 1996 đến 1998), Junichiro Koizumi (từ 2001 đến 2006) và Shinzo Abe (Thủ tướng trẻ nhất vào năm 2006 và tái đắc cử từ năm 2013). Mỗi người có thể vì một lý do tâm linh hay chính trị của riêng họ.

Nhưng khi các nhà bình luận Mỹ nói tới khuynh hướng ngày càng cực hữu của Thủ tướng Shinzo Abe, họ không hiểu gì về vai trò ngày ưa của Hoa Kỳ. Hay cố tình lờ đi phần đóng góp đáng kể của Trung Quốc ngày nay.

Quý độc giả muốn tìm hiểu thêm về phần đóng góp này thì xin đọc Giai phẩm Xuân Giáp Ngọ của Việt Báo!...

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.