Hôm nay,  

Khát Vọng Dân Chủ

08/02/201400:00:00(Xem: 5895)
Thể chế dân chủ là bước tiến vừa mang tính khách quan vừa tất yếu của lịch sử nhân loại. Chính vì thế mà chế độ chiếm hữu nô lệ, rồi đến chế độ phong kiến trên toàn thế giới hoàn toàn sụp đổ. Sự kiện khối chủ nghĩa cộng sản Đông Âu tan rã ngay trên thành trì của nó cũng không ngoài qui luật.

Ở nước ta, khi triều đại phong kiến Bảo Đại cuối cùng kết thúc, thực dân Pháp rút quân, thì trải qua hai mươi năm nội chiến. Sau ngày 30-4-1975, chấm dứt chiến tranh thì chủ nghĩa Cọng sản độc tài toàn trị, phi dân chủ áp đặt trên toàn quốc. Tuy là với tên gọi và hình thức khác nhau, nhưng bản chất chế độ Phong kiến và chế độ Cộng sản đều giống nhau là: Độc tài và chuyên quyền.

Quyền lực nhà nước thay vì thuộc về nhân dân thì lại thuộc về tập đoàn Cộng sản, cụ thể là Bộ chính trị - đứng đầu là Tổng bí thư; cũng như chế độ phong kiến thì quyền lực thuộc về triều đình Hoàng tộc – đứng đầu là Vua. Tóm lại, chế độ Cộng sản là chế độ nhà nước phong kiến kiểu mới -- nhân dân thực chất là không có quyền làm chủ đất nước theo đúng nghĩa. Nhà nước pháp-quyền, pháp-trị đã thay thế bằng đảng-quyền, đảng-trị. Vì thế, câu ca dao nhân gian thời xưa phong kiến vẫn thường lưu truyền trong sự ta thán của dân chúng thời nay:

“Con Vua Thì Lại Làm Vua,
Con Sải Ở Chùa Lại Quét Lá Đa”

Tất cả các chức vị, phong tước cho các quan chức chính quyền các cấp được bố trí bổ nhiệm theo thứ tự ưu tiên 1, 2,3 “

- Nhất hậu duệ (con ông, cháu cha)

- Nhì tiền tệ (bỏ tiền ra hối lộ để mua chức, mua quan)

- Ba trí tuệ (con cái các cụ được dự bị làm cán bộ nguồn nên được đưa đi du học bằng tiền thuế của dân nên học hàm, học vị cũng cao)

Những phát ngôn trong bài phát biểu của các vị lãnh đạo, những xiển dương trên các Pa-nô, áp-phíc trưng bày nơi công cộng như: “Tập trung dân chủ, mở rộng dân chủ, phát huy dân chủ, đẩy mạnh dân chủ, v.v.” Thực chất đó chỉ là “cái bánh vẽ“ mị dân mà thôi. Điển hình là lời phát ngôn cao ngạo, thật buồn cười của bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan: “Dân chủ nước ta cao gấp vạn lần dân chủ tư sản”.

Thiếu dân chủ, nhân dân không được quyền tham gia trong những quyết định quốc sách kinh tế dân sinh, như vụ bô-xít Tây Nguyên. Trong khi các nhà khoa học phản bác, các nhân sĩ không tán thành, các cựu tướng lĩnh lão thành không đồng tình vì tính kinh tế, an ninh và khoa học, nhưng đảng CS vẫn bất chấp, gây ra hệ lụy nhãn tiền.


Thiếu dân chủ, nên việc lập Hiến pháp, dự thảo sửa đổi Hiến Pháp (HP) chỉ là thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng cầm quyền và HP chỉ là "văn kiện chính trị pháp lý đứng sau cương lĩnh của Đảng" (lời phát biểu ông Nguyễn phú trọng) nên HP không còn là HP dân chủ thông qua được trưng cầu dân ý.

Thiếu dân chủ, nên nhân quyền bị chà đạp. Khi công dân nào dám thực thi quyền các quyền con người của mình như: Quyền tự do ngôn luận, quyền tự do lập hội, quyền tự do tôn giáo, quyền bày tỏ chính kiến, quyền khiếu nại tố cáo... thì đều bị trù dập và quy kết phản động vì vi phạm tội luật hình sự. Đành rằng mỗi quốc gia có một lịch sử và nền văn hóa riêng nhưng nhân quyền là quyền phổ quát của con người, có chuẩn mực trong công ước quốc tế, mà chính phủ Việt Nam cũng đã ký. Nghĩa là, cùng môt hành vi nhưng ở VN thị bị bỏ tù nhưng ở các nước khác thì không.

Thiếu dân chủ, thì sẽ không tập hợp toàn thể trí lực của xã hội - sinh khí của đất nước, để cùng nhau xây dựng, phát triên và bảo vệ tổ quốc.

Thông điệp của TT Nguyễn Tấn Dũng vào đầu năm 2014: “... Dân chủ và pháp quyền là cặp song sinh trong thể chế chính trị hiện đại... “. Ông nói rất đúng, nhưng thể chế chính trị hiện đại không thể tồn tại với sự độc tài chuyên chế như chế độ CSVN, mà là thể chế dân chủ đa đảng, dân cử, dân bầu bằng sự công khai minh bạch như đại đa số các nước văn minh phát triển trên thế giới. Trên báo điện tử vietnamnet.vn ngày 3-2 có bài viết “Để Đảng mạnh phải mở rộng dân chủ“ của Nguyễn Tấn Đăng và “Thách thức lớn nhất trên con đường phát triển“ của TS Lê Đăng Doanh cũng thể hiện ước vọng dân chủ, dù không dám bộc bạch hết lòng mình.

Dân chủ là khát vọng sống của toàn dân, là khát vọng tiến bộ cho Tổ Quốc. Một chân lý rất đơn giản “Muốn mọi người cùng nhau làm thì phải có dân chủ; và muốn loại trừ việc áp chế người khác bằng quyền lực, thì phải có pháp quyền.“

Chỉ có dân chủ mới chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của nhau trong không khí ôn hòa, cởi mở. Có như thế thì các nhà trí thức, nhà khoa học mới an tâm tiến hành những hoạt động cải cách hiệu quả và có lợi cho quốc gia, dân tộc. Cũng chính vì khát vọng này mà bao nhiêu người vượt qua sợ hãi, dám lên tiếng công khai đấu tranh mà lâm vào cảnh tù đày.-

Viết cho ngày UPR tại Giơ-ne-vơ ngày 6-2-2014

Hồng Trung

Thành viên Đảng Vì Dân Việt Nam

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trước hiện trạng kỳ thị, không chỉ bạo hành bằng lời nói, mà còn tấn công hung bạo và bắn giết khiến nhiều người đã thiệt mạng hoặc bị thương tích nặng, các chuyên gia và các nhà hoạt động đã đưa ra một số biện pháp để chống trả vấn nạn này và giúp các thành viên trong cộng đồng tự bảo vệ
Lực lượng “ăn cháo đá bát” rất đông và lan nhanh như bệnh dịch, nhưng chưa bao giờ được công khai cho dân biết để dân bàn, dân kiểm tra. Ngược lại, dân lại là nạn nhân của đám ong nuôi trong tay áo từ bao năm nay. Chúng nằm trong ngành Tuyên giáo, trước đây gọi là Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương. Sau lưng đảng còn có đội ngũ chuyên nghề nói thuê và viết mướn gồm Báo cáo viên và Dư luận viên được trả lương bằng tiền thuế của dân.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
Tôi là anh trưởng trong gia đình, với 9 đứa em cả trai lẫn gái, nên trách nhiệm thật khó khăn, từ nhân cách cho đến cuộc sống. Nhưng may mắn tôi gặp được những người anh ngoài xã hội để noi gương và học hỏi. Một trong số những nhân vật hiếm hoi đó, chính là anh Nguyễn Văn Tánh, người mà tôi đã có cơ hội được tiếp tay hỗ trợ và đồng hành cùng anh trong suốt 20 cuộc Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế Liên Hiệp Quốc tại thành phố New York từ 20 năm qua.
Tôi tha phương cầu thực gần như trọn kiếp (và may mắn lạc bước đến những nơi không thiếu bơ thừa sữa cặn) nên bất ngờ nhìn thấy mảnh đời cùng quẫn thì không khỏi chạnh lòng. Nghe tiếng mời chào khẩn thiết, nhìn những khuôn mặt khẩn cầu của đồng bào mình mà muốn ứa nước mắt.
Các định kiến tai hại đối với các phụ nữ Á Châu trong văn hóa đại chúng của Mỹ đã có từ ít nhất thế kỷ thứ 19. Từ đó, các nhà truyền giáo và binh sĩ Mỹ tại Á Châu đã xem phụ nữ mà họ gặp đó như là ngoại lai và dễ tùng phục. Các định kiến này đã ảnh hưởng luật di trú đầu tiên của Hoa Kỳ dựa vào chủng tộc, Đạo Luật 1875 Page Act, ngăn cản các phụ nữ Trung Quốc vào Hoa Kỳ. Giả thuyết chính thức là rằng, ngoại trừ được chứng minh ngược lại, các phụ nữ TQ tìm cách vào Hoa Kỳ đã thiếu tư cách đạo đức và là những gái mại dâm. Trên thực tế, nhiều người là vợ tìm cách đoàn tụ với những ông chồng là những người đã đến Hoa Kỳ trước đó. Khoảng cùng thời gian đó, các phụ nữ TQ tại San Francisco cũng bị làm dê tế thần bởi các viên chức y tế địa phương là những người sợ rằng họ sẽ lây truyền các bịnh lây lan qua đường tình dục cho các đàn ông da trắng, là những người sau đó sẽ lây lan cho các bà vợ của họ. Vào giữa thế kỷ 20, các căn cứ chiến tranh và quân sự của Hoa Kỳ tại TQ, Nhật, Phi Luật Tân,
Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Xuân Phúc … quả đúng là những kẻ thuộc giới ăn trên ngồi trốc. Họ là những hạt giống đỏ được gieo trồng từ miền Bắc, và đã ươm mầm thành cây. Loại cây này, học giả Phan Khôi gọi một cách lịch sự là cây Cộng Sản. Còn dân gian thì gọi là cây cứt lợn!
Nếu đảng đủ can đảm và ông Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng còn đủ bản lĩnh của một Lãnh đạo gương mẫu trong công tác phòng, chống tham nhũng thì hãy công khai cho dân biết Tổ chức Thanh niên của đảng đã làm được những gì cho dân cho nước trong 90 năm qua. Hay ngót 7 triệu Đoàn viên TNCS chẳng làm được trò trống gì, ngoải vai trò tay sai đã tuyệt đối trung thành với đảng và với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh?
Adam Smith và Karl Marx cùng được gọi chung là kinh tế cổ điển (classical economy) tức là lao động (labour) tạo ra giá trị (value.) Khác ở chổ Smith quan niệm thị trường tự do giúp mọi người hưởng thụ giá trị lao động còn Karl Marx lên án giá trị lao động của công nhân bị tư bản bóc lột. Vào đầu thế kỷ thứ 20 xuất hiện một cách nhìn mới là giá trị (value) do nơi tiện ích (utility) thay vì từ lao động (labour). Thí dụ một người đang khát uống ly nước đầu thì thật ngon, ly thứ nhì vừa vừa còn ly thứ ba đầy bụng nuốt không vô, tức là giá trị của mỗi ly nước giảm khi nhu cầu tiện ích hạ thấp. Quan điểm này gọi là Giá Trị Biên Tế hay Marginal Value.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.