Hôm nay,  

Khát Vọng Dân Chủ

08/02/201400:00:00(Xem: 5700)
Thể chế dân chủ là bước tiến vừa mang tính khách quan vừa tất yếu của lịch sử nhân loại. Chính vì thế mà chế độ chiếm hữu nô lệ, rồi đến chế độ phong kiến trên toàn thế giới hoàn toàn sụp đổ. Sự kiện khối chủ nghĩa cộng sản Đông Âu tan rã ngay trên thành trì của nó cũng không ngoài qui luật.

Ở nước ta, khi triều đại phong kiến Bảo Đại cuối cùng kết thúc, thực dân Pháp rút quân, thì trải qua hai mươi năm nội chiến. Sau ngày 30-4-1975, chấm dứt chiến tranh thì chủ nghĩa Cọng sản độc tài toàn trị, phi dân chủ áp đặt trên toàn quốc. Tuy là với tên gọi và hình thức khác nhau, nhưng bản chất chế độ Phong kiến và chế độ Cộng sản đều giống nhau là: Độc tài và chuyên quyền.

Quyền lực nhà nước thay vì thuộc về nhân dân thì lại thuộc về tập đoàn Cộng sản, cụ thể là Bộ chính trị - đứng đầu là Tổng bí thư; cũng như chế độ phong kiến thì quyền lực thuộc về triều đình Hoàng tộc – đứng đầu là Vua. Tóm lại, chế độ Cộng sản là chế độ nhà nước phong kiến kiểu mới -- nhân dân thực chất là không có quyền làm chủ đất nước theo đúng nghĩa. Nhà nước pháp-quyền, pháp-trị đã thay thế bằng đảng-quyền, đảng-trị. Vì thế, câu ca dao nhân gian thời xưa phong kiến vẫn thường lưu truyền trong sự ta thán của dân chúng thời nay:

“Con Vua Thì Lại Làm Vua,
Con Sải Ở Chùa Lại Quét Lá Đa”

Tất cả các chức vị, phong tước cho các quan chức chính quyền các cấp được bố trí bổ nhiệm theo thứ tự ưu tiên 1, 2,3 “

- Nhất hậu duệ (con ông, cháu cha)

- Nhì tiền tệ (bỏ tiền ra hối lộ để mua chức, mua quan)

- Ba trí tuệ (con cái các cụ được dự bị làm cán bộ nguồn nên được đưa đi du học bằng tiền thuế của dân nên học hàm, học vị cũng cao)

Những phát ngôn trong bài phát biểu của các vị lãnh đạo, những xiển dương trên các Pa-nô, áp-phíc trưng bày nơi công cộng như: “Tập trung dân chủ, mở rộng dân chủ, phát huy dân chủ, đẩy mạnh dân chủ, v.v.” Thực chất đó chỉ là “cái bánh vẽ“ mị dân mà thôi. Điển hình là lời phát ngôn cao ngạo, thật buồn cười của bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan: “Dân chủ nước ta cao gấp vạn lần dân chủ tư sản”.

Thiếu dân chủ, nhân dân không được quyền tham gia trong những quyết định quốc sách kinh tế dân sinh, như vụ bô-xít Tây Nguyên. Trong khi các nhà khoa học phản bác, các nhân sĩ không tán thành, các cựu tướng lĩnh lão thành không đồng tình vì tính kinh tế, an ninh và khoa học, nhưng đảng CS vẫn bất chấp, gây ra hệ lụy nhãn tiền.


Thiếu dân chủ, nên việc lập Hiến pháp, dự thảo sửa đổi Hiến Pháp (HP) chỉ là thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng cầm quyền và HP chỉ là "văn kiện chính trị pháp lý đứng sau cương lĩnh của Đảng" (lời phát biểu ông Nguyễn phú trọng) nên HP không còn là HP dân chủ thông qua được trưng cầu dân ý.

Thiếu dân chủ, nên nhân quyền bị chà đạp. Khi công dân nào dám thực thi quyền các quyền con người của mình như: Quyền tự do ngôn luận, quyền tự do lập hội, quyền tự do tôn giáo, quyền bày tỏ chính kiến, quyền khiếu nại tố cáo... thì đều bị trù dập và quy kết phản động vì vi phạm tội luật hình sự. Đành rằng mỗi quốc gia có một lịch sử và nền văn hóa riêng nhưng nhân quyền là quyền phổ quát của con người, có chuẩn mực trong công ước quốc tế, mà chính phủ Việt Nam cũng đã ký. Nghĩa là, cùng môt hành vi nhưng ở VN thị bị bỏ tù nhưng ở các nước khác thì không.

Thiếu dân chủ, thì sẽ không tập hợp toàn thể trí lực của xã hội - sinh khí của đất nước, để cùng nhau xây dựng, phát triên và bảo vệ tổ quốc.

Thông điệp của TT Nguyễn Tấn Dũng vào đầu năm 2014: “... Dân chủ và pháp quyền là cặp song sinh trong thể chế chính trị hiện đại... “. Ông nói rất đúng, nhưng thể chế chính trị hiện đại không thể tồn tại với sự độc tài chuyên chế như chế độ CSVN, mà là thể chế dân chủ đa đảng, dân cử, dân bầu bằng sự công khai minh bạch như đại đa số các nước văn minh phát triển trên thế giới. Trên báo điện tử vietnamnet.vn ngày 3-2 có bài viết “Để Đảng mạnh phải mở rộng dân chủ“ của Nguyễn Tấn Đăng và “Thách thức lớn nhất trên con đường phát triển“ của TS Lê Đăng Doanh cũng thể hiện ước vọng dân chủ, dù không dám bộc bạch hết lòng mình.

Dân chủ là khát vọng sống của toàn dân, là khát vọng tiến bộ cho Tổ Quốc. Một chân lý rất đơn giản “Muốn mọi người cùng nhau làm thì phải có dân chủ; và muốn loại trừ việc áp chế người khác bằng quyền lực, thì phải có pháp quyền.“

Chỉ có dân chủ mới chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của nhau trong không khí ôn hòa, cởi mở. Có như thế thì các nhà trí thức, nhà khoa học mới an tâm tiến hành những hoạt động cải cách hiệu quả và có lợi cho quốc gia, dân tộc. Cũng chính vì khát vọng này mà bao nhiêu người vượt qua sợ hãi, dám lên tiếng công khai đấu tranh mà lâm vào cảnh tù đày.-

Viết cho ngày UPR tại Giơ-ne-vơ ngày 6-2-2014

Hồng Trung

Thành viên Đảng Vì Dân Việt Nam

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.