Hôm nay,  

Kinh Tế Obamacare

04/03/201400:00:00(Xem: 14473)
...kể từ năm 2016, từ 6 đến 7 triệu người sẽ mất bảo hiểm tập thể do công ty cung cấp...

Trên cột báo này, chúng ta đã có dịp bàn rất sâu rộng về những hậu quả trên phương diện y tế của cuộc Cải Tổ Y Tế của TT Obama, được gọi nôm na là Obamacare. Cũng dễ hiểu vì quan trọng nhất trong cải tổ y tế là những hậu quả y tế. Nhưng trên thực tế cải tổ y tế này dĩ nhiên là sẽ có những ảnh hưởng vượt xa khỏi phạm vi y tế. Chẳng hạn như cột báo này đã bàn ít nhiều về tác động của Obamacare lên thị trường lao động qua việc các công ty sẽ sa thải hay thay đổi quy chế làm việc từ toàn thời qua bán thời để tránh khỏi phải chịu chi phí bảo hiểm y tế cho nhân viên.

Lý luận này không phải là lý luận kiểu bài bác khơi khơi cho có, mà là một lý luận cơ bản trong luật kinh tế thị trường. Nhưng dù sao thì cho đến nay vẫn chỉ là... lý luận, chưa được chứng minh bằng những con số thống kê thực tế hay nghiên cứu chi tiết.

Nhưng mới đây cơ quan CBO, tức là Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội, một cơ quan chính thức không phe đảng của quốc hội Hoa kỳ, đã chính thức phổ biến nghiên cứu của họ.

Từ trước đến nay, kể cả trên cột báo này, đã có nhiều lý luận cho rằng việc luật Obamacare sẽ đòi hỏi tất cả các công ty có trên 50 nhân viên toàn thời phải mua bảo hiểm sức khỏe tập thể cho tất cả các nhân viên, nếu không sẽ bị phạt nặng, sẽ đưa đến tình trạng một số không ít công ty nhỏ của giới trung và tiểu thương sẽ phải hoặc là sa thải nhân viên xuống dưới mức 50, hoặc là thay đổi quy chế nhân viên toàn thời, ép một số nhân viên phải qua làm việc bán thời để chỉ giữ dưới 50 nhân viên làm toàn thời. Ở đây, xin nhắc lại các công ty không bị bắt buộc phải cung cấp bảo hiểm y tế tập thể cho nhân viên làm bán thời.

Hệ quả đầu tiên và hiển nhiên là Obamacare sẽ không giúp giải quyết nạn thất nghiệp mà trái lại, còn gia tăng nạn thất nghiệp. Đó là một hậu quả cực kỳ nghiêm trọng trong tình trạng kinh tế èo uột của Mỹ hiện nay, với tỷ lệ thất nghiệp ngất ngưởng ở mức cao nhất và lâu dài nhất lịch sử cận đại Mỹ.

Kinh tế Mỹ bình thường chỉ có khoảng 3%-4% thất nghiệp. Cao lắm và gây nhiều khó khăn là 5%-7%. Nhưng từ ngày TT Obama nhậm chức, tỷ lệ thất nghiệp đã leo lên lên xấp xỉ 10%. Lúc gần đây, tỷ lệ này đã hạ xuống dưới 7%. Nhưng con số 7% này mang một ý nghiã hoàn toàn sai lệch. Con số này xuống thấp như vậy chỉ vì hàng triệu người dân trong tuổi lao động đã bị loại ra khỏi thống kê của thị trường lao động vì họ đã thất nghiệp quá lâu, hay vì họ nản chí không ghi tên thất nghiệp hay đăng ký xin việc làm nữa. Con số thực tế của tỷ lệ thất nghiệp hiện hành, theo nhiều thống kê chính thức của Nhà Nước cho biết là… 15%.

Tỷ lệ thất nghiệp cao trên căn bản kinh tế học dĩ nhiên có tác dụng không tốt cho phát triển kinh tế. Càng ít người đi làm thì trên căn bản, sản xuất nói chung càng thấp kém. Cũng may là cái nguyên lý cơ bản này ngày một mất đi ý nghiã, chỉ vì thế giới ngày nay càng ngày cơ giới hoá, hay nói cho chính xác hơn, ngày một vi tính hoá. Một phần rất lớn các công tác ngày xưa đòi hỏi nhân viên, nhân sự, bây giờ đã được thay bằng máy vi tính, computer. Bởi vậy, ta thấy hiện tượng tỷ lệ thất nghiệp thật cao, nhưng kinh tế Mỹ vẫn phát triển ào ào, các công ty ngày một lời to, chỉ số Dow Jones, NASDAQ ngày một leo thang. Chỉ tổ làm giàu thêm cho các đại gia sở hữu chủ các công ty, trong khi nhân viên làm công cho những công ty đó thì … chưa bị sa thải là may, đừng mong chờ được tăng lương theo chỉ số Dow Jones.

Con số 15% thất nghiệp là nói chung cho cả nước. Nhưng nếu nhìn vào từng giới dân số thì con số còn kinh hoàng hơn nhiều, chẳng hạn như tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên da đen là trên dưới 40%. Ta chỉ cần lái xe dạo qua các khu da đen tại các thành phố lớn sẽ thấy các thanh niên da đen lang thang đứng đầy ngoài đường, chẳng có chuyện gì làm.

Tệ nạn xã hội cũng từ đó mà ra. Đặc biệt hiện nay mới phát sinh ra một “phong trào tiêu khiển” mới, rất thịnh hành trong các khu dân thiểu số da màu, gọi là “knock-out game”. Một đám thanh niên tụ tập một chỗ, hay cùng đi lang thang một nhóm, thấy một người lạ đi tới, bất ngờ vô cớ nhẩy ra đánh người đó chơi, rồi cả đám cười lăn ra rồi đi tìm mục tiêu khác. Người bị đánh, chẳng cần biết là ai, lớn bé, già trẻ, trai gái, ông già bà lão, hầu hết là da trắng, có khi da vàng, da nâu. Chẳng hận thù, chẳng quen biết, chẳng gây hấn hay xích mích gì. Đối với đám thanh niên, chán quá không biết làm gì, chỉ là một thú tiêu khiển mới phát minh ra cho vui. Và họ cũng hiểu với ông tổng thống là “người anh em” (bro), lại đã từng tuyên bố “cảnh sát đều là ngu xuẩn” (cops are stupid) thì việc bị bắt và trừng phạt cũng có thể nhẹ tay phần nào.

Những ông bà cấp tiến đã mau mắn chỉ trích các đại công ty, cho rằng họ là những người tham tiền, chỉ biết hành xử vì tiền bạc, sẵn sàng sa thải nhân viên mà không nghĩ gì đến vấn đề con người, số phận lao đao của những người bị sa thải. TT Obama đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi các đại công ty nên có chính sách tích cực giúp giải quyết nạn thất nghiệp bằng cách thuê thêm nhân viên. Ngay cả Đệ Nhất Phu Nhân Michelle cũng đã lên tiếng kêu gọi các công ty nên có chính sách giúp các cựu quân nhân có việc làm.

Qua những lời hò hét kêu gọi của các chính khách cấp tiến thì tất cả là lỗi từ phiá cung, tức là từ phiá các công ty, không chịu thuê thêm nhân viên để tiết kiệm chi phí bảo hiểm.

Nhưng rồi mới đây, Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội đã tạt một gáo nước lạnh, lay tỉnh thiên hạ về một thực tế khác xa hình ảnh của khối cấp tiến đưa ra mà nhiều người cho là đúng. Theo văn phòng này, thì nghiên cứu của họ cho thấy là tỷ lệ thất nghiệp cao dĩ nhiên một phần nào là hậu quả kinh tế của Obamacare, dồn một số công ty vào việc cắt giảm nhân viên, nhưng yếu tố quan trọng hơn lại là chuyện một số lớn nhân viên tự ý... nằm nhà nghỉ khỏe, ăn oeo-phe, nhận trợ cấp bảo hiểm, có lợi hơn đi làm nhiều! Ta cần lưu ý đây là chuyện họ tự ý nghỉ làm chứ không phải công ty sa thải họ.

Trước hết phải khẳng định ngay văn phòng này là một văn phòng chuyên gia không đảng phái, không phải do đảng Dân Chủ hay đảng Cộng Hòa bổ nhiệm và chi phối.

Đặc biệt văn phòng này cho biết là theo nghiên cứu của họ, luật Obamacare không khuyến khích các chủ hãng sa thải nhân viên nhiều như dự đoán, mà trái lại, luật đó đã tạo ra kẽ hở để thiên hạ có dịp nghỉ làm, nằm nhà ăn oeo-phe, lãnh trợ cấp để có bảo hiểm trọn vẹn, có lợi hơn.

Hàng triệu người đã hoặc là nghỉ làm luôn, hoặc là tự ý đi tìm việc làm bán thời, cốt sao cho mức lợi tức xuống tới mức có thể hưởng trợ cấp Medicaid trọn vẹn, hay hưởng trợ cấp tiền mua bảo hiểm y tế. Đó là những người có mức lợi tức cao hơn mức tối thiểu lãnh Medicaid một chút, họ nghỉ làm để lợi tức tuột xuống hạng Medicaid để nhận tiền Medicaid. Hay hạng người trong giới trung lưu thấp nghỉ làm, hay làm ít giờ đi để lợi tức tuột xuống mức để họ có thể nhận trợ cấp bảo hiểm y tế. Theo văn phòng này, Obamacare sẽ khiến ít nhất là hai triệu rưởi người tự ý nghỉ làm hay tự ý kiếm việc làm bán thời từ giờ cho đến năm 2017.

Bất cứ một người bình thường nào cũng thấy đây là một tình trạng bất thường, không thể có lợi cho đất nước. Cả triệu người không đi làm tất nhiên sẽ giảm mức sản xuất kinh tế cho quốc gia, và hơn nữa sẽ tăng gánh nặng của Nhà Nước qua việc tăng tiền trợ cấp đủ loại cho họ. Và dĩ nhiên người phải trả chi phí gia tăng đó là những người vẫn tiếp tục đi làm, đóng thuế cho Nhà Nước có thêm tiền nuôi những người không đi làm.

Và bất cứ một Nhà Nước bình thường nào cũng sẽ cảm thấy có cái gì không ổn, cần phải thay đổi chính sách để gia tăng việc cung cấp nhân lực cho thị trường lao động.

Nhưng oái ăm thay, đó không phải là thái độ của Nhà Nước Obama và khối cấp tiến phe ta. Khối này có vẻ lấy làm hãnh diện vì việc thiên hạ tự ý nghỉ làm phản ánh một chính sách đã cho phép họ có sự “tự do” –freedom- lựa chọn cuộc sống của họ, không bị lệ thuộc vào việc làm, và lại giúp cho những người này có “thời giờ dành cho đời sống gia đình”.

Kẻ viết này bóp trán suy nghĩ nát óc vẫn không hiểu được phản ứng này của chính quyền Obama là phản ứng “nói chơi” hay phản ứng “nói thiệt”. Thiên hạ thất nghiệp ào ào mà Nhà Nước cho rằng đó là điều tốt vì chứng tỏ Nhà Nước đã giúp họ có khả năng tự do lựa chọn lối sống –đi làm hay nằm nhà ăn trợ cấp- và có nhiều thời giờ dành cho gia đình??? Mọi chuyện đã có Nhà Nước lo.

Trên căn bản, lý luận kiểu này tuyệt đối nằm trọn trong nhân sinh quan “vú em” của chủ thuyết Obama. Và phần nào giải thích được việc Nhà Nước Obama chưa bao giờ thật sự quan tâm đến việc giải quyết nạn thất nghiệp tại nước này cả.

Đi đến tận cùng của lý luận này thì toàn dân cả nước sẽ có “tự do” được ngồi nhà, ăn tiền trợ cấp Nhà Nước để vợ chồng vui vẻ, du hý và sanh đẻ đầy nhà, rồi Nhà Nước lo hết. Nghe cũng có vẻ hấp dẫn, nhưng rồi câu hỏi là “thế thì ai là những người ngu muội đâm đầu đi làm? Nhà Nước lấy tiền đâu ra để nuôi cả nước ngồi nhà?”

Hay là Nhà Nước dự tính lột hết tiền của khối 1% “nhà giàu” đi làm cật lưng để nuôi 99% “nhà nghèo” ngồi mát ăn bát vàng? Kẻ viết này hiển nhiên thuộc thành phần 99% nên nghe chuyện này cũng thấy mát tai. Nhưng thực tế, đứa trẻ lớp mẫu giáo cũng hiểu tình trạng này không bao giờ có thể xẩy ra. Khối 1% không thể nào đủ giàu để nuôi khối 99% được. Và cái khối 1% chắc chắn không ngu đến độ tự ý tiếp tục cong lưng đi làm kiếm tiền nuôi khối 99%. Nếu ngu như vậy thì làm sao họ có thể trở thành giàu có được? Mà có muốn cũng không được. Cả triệu nhà máy, công ty, cửa hàng nuôi sống kinh tế cả nước nếu 99% nằm nhà thì lấy ai điều hành?

Thực tế mà nói, sẽ không bao giờ có chuyện 99% dân Mỹ quyết định nằm nhà sống bằng oeo-phe theo kiểu này. Chỉ là một thiểu số người thiếu tinh thần trách nhiệm, lợi dụng một kẽ hở của luật mới thôi. Do đó, hậu quả tài chánh không mấy quan trọng. Con số hai triệu người làm ít giờ đi sẽ không có tác dụng gì ghê gớm trên nền kinh tế vĩ đại của đại cường Cờ Hoa. Vấn đề không phải là những mất mát tiền bạc vật chất.

Vấn đề ở đây là thái độ của chính quyền Obama. Một sự lạm dụng kẽ hở của luật đáng lẽ nên bị chỉ trích và Nhà Nước cần làm một cái gì để ngăn chặn hay bít lỗ hổng. Nhưng Nhà Nước Obama trái lại, công khai bênh vực và ca tụng việc làm này. Đây là một hành động chẳng những cố tình lợi dụng kẽ hở luật pháp, mà lại là một thái độ cố tình trốn tránh nghiã vụ công dân để đùn gánh nặng tài chánh của mình lên đầu người khác. Trên căn bản, vừa bất hợp pháp, vừa vi phạm nguyên tắc đạo đức cũng như tính công bằng. Vậy mà lại được sự cổ võ của chính quyền Obama?!

Dĩ nhiên ai cũng hiểu lời biện giải cua chính quyền Obama chỉ là một cách ngụy biện chạy tội, tìm cách khỏa lấp thất bại (tăng số người thất nghiệp) bằng một kiểu giải thích tích cực (tự do và có thời giờ lo cho gia đình), nhưng vô hình chung, Nhà Nước Obama đã khuyến khích hay ít nhất cũng đã bao che cho dân lách luật và trốn tránh nghiã vụ công dân. Có phải đó là cách lãnh đạo đúng không? Nếu cả nước nghe theo khuyến khích của Nhà Nước thì chuyện gì sẽ xẩy ra?

Một kết luận khác đáng ghi nhận hơn nữa là vẫn theo nghiên cứu của Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội, kể từ năm 2016, từ 6 đến 7 triệu người sẽ mất bảo hiểm tập thể do công ty cung cấp. Một số lớn công ty cấp tiểu và trung thương sẽ hủy bỏ chính sách cung cấp bảo hiểm tập thể cho nhân viên, và dĩ nhiên những người này sẽ bị bắt buộc phải mua bảo hiểm y tế cá nhân riêng rẽ đắt hơn nhiều.

Và cái đinh của bản nghiên cứu mới thật là đáng ghi nhận: 10 năm nữa, đến năm 2024, con số người không có bảo hiểm sức khỏe tại Mỹ sẽ lên đến ít nhất 30 triệu người.

TT Obama viện dẫn chuyện nước Mỹ hiện có khoảng 30 triệu người không có bảo hiểm, và ông tung ra Obamacare với lý do chính là để chấm dứt tình trạng này và bảo đảm tất cả dân Mỹ đều có bảo hiểm y tế. Nhưng theo nghiên cứu mới này của quốc hội, 10 năm nữa, sẽ vẫn có 30 triệu người không có bảo hiểm. Nói cách khác, Obamacare với phí tổn bạc ngàn tỷ, và với những xáo trộn vĩ đại trong cuộc sống của thiên hạ cũng như trong chế độ y tế Mỹ, chỉ là chuyện… công cốc, chẳng thay đổi được gì hết.

Một viện nghiên cứu lớn khác, Brookings Institution, cho biết trên phương diện lợi tức, Obamacare sẽ giúp tăng lợi tức cho giai cấp lợi tức thấp nhất, những gia đình lãnh dưới 21.000 đô một năm, nhờ gia tăng tiền Medicaid khoảng gần 2.000 đô một năm. Tất cả những gia đình thuộc mức lợi tức cao hơn, và nhất là những người trong lớp tuổi từ 65 trở lên, sẽ thấy lợi tức hàng năm của mình bị giảm, từ 1% đến 2% một năm.

Một luật cải tổ y tế mà kết quả cuối cùng là vẫn có 30 triệu người không có bảo hiểm, hàng triệu người tự ý ngồi nhà ăn trợ cấp, và lợi tức của đại đa số dân bị giảm bớt. Chưa kể chuyện gây xáo trộn vĩ đại trong hệ thống y tế và tăng toàn diện chi phí bảo hiểm cũng như chi phí bác sĩ, nhà thương, thuốc men, và chữa trị. Đó là luật tốt hay xấu, có cần điều nghiên và chỉnh sửa hay không? (02-03-14)

Vũ Linh

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.